HNI 18/10
🌺 CHƯƠNG 15: QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO LÝ
1. MỞ ĐẦU – QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT TRONG DÒNG CHẢY LỊCH SỬ VIỆT NAM
Khi nhắc đến những bộ luật làm nên linh hồn của dân tộc Việt, không thể không nhắc đến Quốc triều hình luật – thường gọi là Bộ luật Hồng Đức, được ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460–1497). Đây là đỉnh cao của nền pháp trị Việt Nam thời phong kiến, kết tinh trí tuệ và đạo lý của một triều đại thịnh trị. Bộ luật không chỉ là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội, mà còn là bản tuyên ngôn về đạo đức, về nhân nghĩa, về cái nhìn của người Việt với công lý và trật tự.
Nếu Luật Hồng Đức (như cách nhiều người gọi) là “trái tim” của nền pháp trị Việt, thì Quốc triều hình luật chính là bản khế ước văn minh giữa nhà nước và nhân dân, giữa pháp luật và đạo lý, giữa lý trí và tình cảm. Nó cho thấy rằng pháp luật không chỉ để trị dân, mà còn để nâng dân, dạy dân, bảo vệ dân – để mọi người cùng sống trong một xã hội công bằng, hài hòa, nhân bản.
2. Bối cảnh ra đời – Thời đại thịnh trị cần một bộ luật minh triết
Thế kỷ XV, sau khởi nghĩa Lam Sơn, đất nước thoát ách đô hộ Minh, bước vào thời kỳ Đại Việt cường thịnh dưới triều Lê sơ. Vua Lê Thánh Tông – một minh quân kiệt xuất – đã đặt nền tảng cho sự phục hưng toàn diện của quốc gia: chính trị vững mạnh, kinh tế phát triển, văn hóa rực rỡ. Trong bối cảnh đó, nhu cầu về một bộ luật hoàn chỉnh, chặt chẽ, vừa nghiêm minh vừa thấm đẫm nhân văn trở nên cấp bách.
Trước Lê sơ, các triều đại Việt Nam đã có những bộ luật riêng như Hình thư (triều Lý, năm 1042) hay Quốc triều thông chế (triều Trần), nhưng chưa hệ thống và toàn diện. Lê Thánh Tông ý thức sâu sắc rằng, một quốc gia muốn ổn định và hưng thịnh thì phải có luật pháp thống nhất, làm gốc cho mọi chính sách cai trị. Chính vì vậy, ông cho biên soạn Quốc triều hình luật, dựa trên luật pháp truyền thống, tinh hoa Hán luật, nhưng sáng tạo để phù hợp với phong tục và đạo lý Vi
ệt Nam.