• HNI 27/10:
    BÀI THƠ CHƯƠNG 15: CHÍNH TRỊ NGHỊCH ĐẠO – DẤU HIỆU SUY VONG CỦA ĐẾ CHẾ
    Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính trị thuận Đạo – dân an nước thịnh,
    Nghịch Đạo sinh loạn – nghiệp đế vong tàn.
    Trời có luật Trời, Đạo có quy hoàn,
    Ai cưỡng nghịch Đạo, ắt chuốc tai ương.
    Khi quyền lực rời xa lẽ thiện,
    Búa công lý hóa lưỡi gươm oan.
    Quan tham ngồi ngất ngai vàng,
    Mưu riêng che nghĩa, giả đàng chính tâm.
    Lòng dân tan, vận nước chìm,
    Đế vương mất gốc, triều đình lung lay.
    Thiên mệnh chẳng ở nơi tay,
    Mà trong dân khí – mạch dài nghìn năm.
    Ngai vàng dựng giữa phù vân,
    Nước như lửa ngầm, sớm tàn muộn thôi.
    Người trên càng cố nắm ngôi,
    Trời càng khiến cảnh rối bời tang thương.
    Khi chính trị biến thành công cụ,
    Đạo nghĩa bị bán giữa chợ đời.
    Lời vua hóa rỗng tiếng chơi,
    Dân cười trong lệ, lệ rơi trong cười.
    Chính trị nghịch Đạo – dân rời, lòng tán,
    Tham quyền sinh họa, dục vọng sinh tai.
    Trời nhìn xuống, gió cuốn bay,
    Công danh một kiếp hóa mây giữa trời.
    Chính trị thuận Đạo, nhân hòa vững,
    Dân cùng trị nước – đạo cùng sinh.
    Còn nghịch Đạo, dối lòng dân,
    Thì cơ đồ rã, chẳng cần binh đao.
    Khi vua trị nước bằng sợ hãi,
    Là lúc Đạo rời, Trời quay lưng.
    Một lời gian dối – mất nghìn năm chứng,
    Một kẻ tham quyền – đốt cả thiên đường.
    Triều đại suy vong không vì địch,
    Mà vì trong chính trị nghịch tâm.
    Khi kẻ trị quên Đạo nhân,
    Là khi đế nghiệp hóa thân tro tàn.
    Đạo không giữ – Trời không còn giữ,
    Dân không tin – nước chẳng còn dân.
    Khi quyền không gắn với ân,
    Thì vương triều ấy chỉ còn trong mộng.
    Kẻ hiểu Đạo – trị bằng nhân nghĩa,
    Kẻ nghịch Đạo – tự diệt cơ đồ.
    Ngai vàng chẳng giữ được lâu,
    Nếu quên dân gốc, quên câu Trời dạy:
    “Dân là nước – vua như thuyền nổi,
    Nước thuận thì thuyền nổi vững vàng.
    Nước dậy sóng, thuyền tan hoang,
    Chính trị nghịch Đạo – Trời toan đổi người.”
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: BÀI THƠ CHƯƠNG 15: CHÍNH TRỊ NGHỊCH ĐẠO – DẤU HIỆU SUY VONG CỦA ĐẾ CHẾ Henry Lê – Lê Đình Hải Chính trị thuận Đạo – dân an nước thịnh, Nghịch Đạo sinh loạn – nghiệp đế vong tàn. Trời có luật Trời, Đạo có quy hoàn, Ai cưỡng nghịch Đạo, ắt chuốc tai ương. Khi quyền lực rời xa lẽ thiện, Búa công lý hóa lưỡi gươm oan. Quan tham ngồi ngất ngai vàng, Mưu riêng che nghĩa, giả đàng chính tâm. Lòng dân tan, vận nước chìm, Đế vương mất gốc, triều đình lung lay. Thiên mệnh chẳng ở nơi tay, Mà trong dân khí – mạch dài nghìn năm. Ngai vàng dựng giữa phù vân, Nước như lửa ngầm, sớm tàn muộn thôi. Người trên càng cố nắm ngôi, Trời càng khiến cảnh rối bời tang thương. Khi chính trị biến thành công cụ, Đạo nghĩa bị bán giữa chợ đời. Lời vua hóa rỗng tiếng chơi, Dân cười trong lệ, lệ rơi trong cười. Chính trị nghịch Đạo – dân rời, lòng tán, Tham quyền sinh họa, dục vọng sinh tai. Trời nhìn xuống, gió cuốn bay, Công danh một kiếp hóa mây giữa trời. Chính trị thuận Đạo, nhân hòa vững, Dân cùng trị nước – đạo cùng sinh. Còn nghịch Đạo, dối lòng dân, Thì cơ đồ rã, chẳng cần binh đao. Khi vua trị nước bằng sợ hãi, Là lúc Đạo rời, Trời quay lưng. Một lời gian dối – mất nghìn năm chứng, Một kẻ tham quyền – đốt cả thiên đường. Triều đại suy vong không vì địch, Mà vì trong chính trị nghịch tâm. Khi kẻ trị quên Đạo nhân, Là khi đế nghiệp hóa thân tro tàn. Đạo không giữ – Trời không còn giữ, Dân không tin – nước chẳng còn dân. Khi quyền không gắn với ân, Thì vương triều ấy chỉ còn trong mộng. Kẻ hiểu Đạo – trị bằng nhân nghĩa, Kẻ nghịch Đạo – tự diệt cơ đồ. Ngai vàng chẳng giữ được lâu, Nếu quên dân gốc, quên câu Trời dạy: “Dân là nước – vua như thuyền nổi, Nước thuận thì thuyền nổi vững vàng. Nước dậy sóng, thuyền tan hoang, Chính trị nghịch Đạo – Trời toan đổi người.” Đọc ít hơn
    Like
    Love
    9
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 16:
    Lòng dân và tính chính danh của quyền lực
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Trời trao quyền chẳng phải cho kẻ mạnh,
    Mà cho ai biết lắng tiếng dân ca.
    Dân là biển, quyền như thuyền lướt sóng,
    Thuận lòng dân – thuyền vững đến muôn xa.
    Chính danh đến từ tâm dân quy tụ,
    Không từ ngai, gươm báu hay ấn vàng.
    Khi dân thuận, nước yên như trời lặng,
    Khi dân ly, quyền lực hóa tro tàn.
    Có triều đại dựng trên lòng dân sáng,
    Chẳng cần roi vẫn khiến nước thanh bình.
    Có triều đại dựa vào gươm và máu,
    Rụng tan như lá úa cuối bình minh.
    Dân là gốc – lời xưa còn vọng mãi,
    Bao vương triều hiểu được đạo này đâu?
    Họ quên mất gốc sinh ra quyền lực,
    Từ nhân tâm – chẳng từ đấu tranh sầu.
    Khi quyền lực biết soi mình trong dân,
    Sẽ thấy trong mắt dân – Trời phản chiếu.
    Còn khi nó xem dân như cát bụi,
    Chính nó đang tự đổ vỡ, tiêu điều.
    Một nụ cười dân – ngàn vàng chính trị,
    Một giọt lệ dân – mệnh trị lung lay.
    Lòng dân chính là thước đo danh chính,
    Quyền nào trái Đạo – sớm hóa mây bay.
    Có thể dối một thời bằng mỹ ngữ,
    Nhưng dân không dại mãi giữa nhân gian.
    Sức mạnh thật không nằm trong khẩu hiệu,
    Mà trong niềm tin – gắn kết muôn ngàn.
    Khi dân đã tin – non sông bất khuất,
    Khi dân đã nghi – đế chế lung lay.
    Chính danh ấy – không ai tự ban tặng,
    Mà do lòng dân – ký giữa trời mây.
    Đọc thêm
    HNI 27/10: Bài thơ chương 16: Lòng dân và tính chính danh của quyền lực (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Trời trao quyền chẳng phải cho kẻ mạnh, Mà cho ai biết lắng tiếng dân ca. Dân là biển, quyền như thuyền lướt sóng, Thuận lòng dân – thuyền vững đến muôn xa. Chính danh đến từ tâm dân quy tụ, Không từ ngai, gươm báu hay ấn vàng. Khi dân thuận, nước yên như trời lặng, Khi dân ly, quyền lực hóa tro tàn. Có triều đại dựng trên lòng dân sáng, Chẳng cần roi vẫn khiến nước thanh bình. Có triều đại dựa vào gươm và máu, Rụng tan như lá úa cuối bình minh. Dân là gốc – lời xưa còn vọng mãi, Bao vương triều hiểu được đạo này đâu? Họ quên mất gốc sinh ra quyền lực, Từ nhân tâm – chẳng từ đấu tranh sầu. Khi quyền lực biết soi mình trong dân, Sẽ thấy trong mắt dân – Trời phản chiếu. Còn khi nó xem dân như cát bụi, Chính nó đang tự đổ vỡ, tiêu điều. Một nụ cười dân – ngàn vàng chính trị, Một giọt lệ dân – mệnh trị lung lay. Lòng dân chính là thước đo danh chính, Quyền nào trái Đạo – sớm hóa mây bay. Có thể dối một thời bằng mỹ ngữ, Nhưng dân không dại mãi giữa nhân gian. Sức mạnh thật không nằm trong khẩu hiệu, Mà trong niềm tin – gắn kết muôn ngàn. Khi dân đã tin – non sông bất khuất, Khi dân đã nghi – đế chế lung lay. Chính danh ấy – không ai tự ban tặng, Mà do lòng dân – ký giữa trời mây. Đọc thêm
    Like
    Love
    8
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 17:
    Tư tưởng “Dân là Trời” trong triết học Đông – Tây
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Dân là Trời – lời xưa như sấm động,
    Vang muôn đời giữa cõi đất nhân sinh.
    Không ngai báu nào cao hơn ý dân,
    Không vương quyền nào lớn hơn công chính.
    Trời chẳng ở nơi xa vời mây gió,
    Trời trong dân – trong ánh mắt yêu thương.
    Mỗi tiếng nói, mỗi tấm lòng nhỏ bé,
    Là thiên mệnh nuôi dưỡng cả càn khôn.
    Khổng Tử dạy: “Dân chi sở dục, Trời chi ý”,
    Lão Tử rằng: “Đạo thuận tự nhiên thôi”.
    Phật chỉ gốc ở tâm người giác ngộ,
    Tây phương nói: “Dân là gốc của ngôi”.
    Từ Đông chí Tây – muôn triết học soi chung,
    Ngôi Trời không ở trên cao xa cách.
    Mỗi sinh linh mang hạt giống Thiên tâm,
    Quyền lực thật – là khi dân được sống thật.
    Ai ngồi cao mà quên lòng dân thấp,
    Tức tự tách mình khỏi cội nguồn Trời.
    Ai biết cúi – để nghe dân thở than,
    Ấy là kẻ đang cùng Trời hợp mệnh.
    Trời chẳng giận, Trời chỉ lặng quan sát,
    Dân chẳng nói, nhưng lòng họ phán minh.
    Một triều đại thuận Trời trong lòng dân,
    Là triều đại trường tồn cùng chính nghĩa.
    Đông phương trọng Đạo – gốc nơi chữ “Dân”,
    Tây phương trọng Lý – cũng quy về Nhân.
    Hai nửa vòng tròn nay hòa làm một,
    Dân là Trời – Trời hóa thân thành Dân.
    Chính trị chân thật không cần thần thánh,
    Chỉ cần lắng nghe tiếng thở nhân gian.
    Mỗi tiếng dân là một lời Trời dạy,
    Mỗi niềm tin – là sức mạnh vạn ban.
    Dân là Trời – đạo ấy không sai khác,
    Qua ngàn năm, vẫn sáng giữa nhân gian.
    Kẻ thuận dân – Trời trao mệnh trị quốc,
    Kẻ trái dân – Trời cất hết vinh quang.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ chương 17: Tư tưởng “Dân là Trời” trong triết học Đông – Tây (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Dân là Trời – lời xưa như sấm động, Vang muôn đời giữa cõi đất nhân sinh. Không ngai báu nào cao hơn ý dân, Không vương quyền nào lớn hơn công chính. Trời chẳng ở nơi xa vời mây gió, Trời trong dân – trong ánh mắt yêu thương. Mỗi tiếng nói, mỗi tấm lòng nhỏ bé, Là thiên mệnh nuôi dưỡng cả càn khôn. Khổng Tử dạy: “Dân chi sở dục, Trời chi ý”, Lão Tử rằng: “Đạo thuận tự nhiên thôi”. Phật chỉ gốc ở tâm người giác ngộ, Tây phương nói: “Dân là gốc của ngôi”. Từ Đông chí Tây – muôn triết học soi chung, Ngôi Trời không ở trên cao xa cách. Mỗi sinh linh mang hạt giống Thiên tâm, Quyền lực thật – là khi dân được sống thật. Ai ngồi cao mà quên lòng dân thấp, Tức tự tách mình khỏi cội nguồn Trời. Ai biết cúi – để nghe dân thở than, Ấy là kẻ đang cùng Trời hợp mệnh. Trời chẳng giận, Trời chỉ lặng quan sát, Dân chẳng nói, nhưng lòng họ phán minh. Một triều đại thuận Trời trong lòng dân, Là triều đại trường tồn cùng chính nghĩa. Đông phương trọng Đạo – gốc nơi chữ “Dân”, Tây phương trọng Lý – cũng quy về Nhân. Hai nửa vòng tròn nay hòa làm một, Dân là Trời – Trời hóa thân thành Dân. Chính trị chân thật không cần thần thánh, Chỉ cần lắng nghe tiếng thở nhân gian. Mỗi tiếng dân là một lời Trời dạy, Mỗi niềm tin – là sức mạnh vạn ban. Dân là Trời – đạo ấy không sai khác, Qua ngàn năm, vẫn sáng giữa nhân gian. Kẻ thuận dân – Trời trao mệnh trị quốc, Kẻ trái dân – Trời cất hết vinh quang.
    Like
    Love
    Angry
    11
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 17:
    Tư tưởng “Dân là Trời” trong triết học Đông – Tây
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Dân là Trời – lời xưa như sấm động,
    Vang muôn đời giữa cõi đất nhân sinh.
    Không ngai báu nào cao hơn ý dân,
    Không vương quyền nào lớn hơn công chính.
    Trời chẳng ở nơi xa vời mây gió,
    Trời trong dân – trong ánh mắt yêu thương.
    Mỗi tiếng nói, mỗi tấm lòng nhỏ bé,
    Là thiên mệnh nuôi dưỡng cả càn khôn.
    Khổng Tử dạy: “Dân chi sở dục, Trời chi ý”,
    Lão Tử rằng: “Đạo thuận tự nhiên thôi”.
    Phật chỉ gốc ở tâm người giác ngộ,
    Tây phương nói: “Dân là gốc của ngôi”.
    Từ Đông chí Tây – muôn triết học soi chung,
    Ngôi Trời không ở trên cao xa cách.
    Mỗi sinh linh mang hạt giống Thiên tâm,
    Quyền lực thật – là khi dân được sống thật.
    Ai ngồi cao mà quên lòng dân thấp,
    Tức tự tách mình khỏi cội nguồn Trời.
    Ai biết cúi – để nghe dân thở than,
    Ấy là kẻ đang cùng Trời hợp mệnh.
    Trời chẳng giận, Trời chỉ lặng quan sát,
    Dân chẳng nói, nhưng lòng họ phán minh.
    Một triều đại thuận Trời trong lòng dân,
    Là triều đại trường tồn cùng chính nghĩa.
    Đông phương trọng Đạo – gốc nơi chữ “Dân”,
    Tây phương trọng Lý – cũng quy về Nhân.
    Hai nửa vòng tròn nay hòa làm một,
    Dân là Trời – Trời hóa thân thành Dân.
    Chính trị chân thật không cần thần thánh,
    Chỉ cần lắng nghe tiếng thở nhân gian.
    Mỗi tiếng dân là một lời Trời dạy,
    Mỗi niềm tin – là sức mạnh vạn ban.
    Dân là Trời – đạo ấy không sai khác,
    Qua ngàn năm, vẫn sáng giữa nhân gian.
    Kẻ thuận dân – Trời trao mệnh trị quốc,
    Kẻ trái dân – Trời cất hết vinh quang.
    Đọc thêm
    HNI 27/10: Bài thơ chương 17: Tư tưởng “Dân là Trời” trong triết học Đông – Tây (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Dân là Trời – lời xưa như sấm động, Vang muôn đời giữa cõi đất nhân sinh. Không ngai báu nào cao hơn ý dân, Không vương quyền nào lớn hơn công chính. Trời chẳng ở nơi xa vời mây gió, Trời trong dân – trong ánh mắt yêu thương. Mỗi tiếng nói, mỗi tấm lòng nhỏ bé, Là thiên mệnh nuôi dưỡng cả càn khôn. Khổng Tử dạy: “Dân chi sở dục, Trời chi ý”, Lão Tử rằng: “Đạo thuận tự nhiên thôi”. Phật chỉ gốc ở tâm người giác ngộ, Tây phương nói: “Dân là gốc của ngôi”. Từ Đông chí Tây – muôn triết học soi chung, Ngôi Trời không ở trên cao xa cách. Mỗi sinh linh mang hạt giống Thiên tâm, Quyền lực thật – là khi dân được sống thật. Ai ngồi cao mà quên lòng dân thấp, Tức tự tách mình khỏi cội nguồn Trời. Ai biết cúi – để nghe dân thở than, Ấy là kẻ đang cùng Trời hợp mệnh. Trời chẳng giận, Trời chỉ lặng quan sát, Dân chẳng nói, nhưng lòng họ phán minh. Một triều đại thuận Trời trong lòng dân, Là triều đại trường tồn cùng chính nghĩa. Đông phương trọng Đạo – gốc nơi chữ “Dân”, Tây phương trọng Lý – cũng quy về Nhân. Hai nửa vòng tròn nay hòa làm một, Dân là Trời – Trời hóa thân thành Dân. Chính trị chân thật không cần thần thánh, Chỉ cần lắng nghe tiếng thở nhân gian. Mỗi tiếng dân là một lời Trời dạy, Mỗi niềm tin – là sức mạnh vạn ban. Dân là Trời – đạo ấy không sai khác, Qua ngàn năm, vẫn sáng giữa nhân gian. Kẻ thuận dân – Trời trao mệnh trị quốc, Kẻ trái dân – Trời cất hết vinh quang. Đọc thêm
    Like
    Love
    Sad
    8
    1 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10 - B18

    CHƯƠNG 24: KHI NGƯỜI LÃNH ĐẠO ĐẶT DÂN LÊN TRÊN QUYỀN
    (Trong kỷ nguyên Đạo Trời, người cầm quyền trở lại làm người phụng sự)

    1. Quyền không phải để thống trị mà để phụng sự
    Từ khi loài người hình thành các thiết chế chính trị đầu tiên, quyền lực luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt, nó đem lại trật tự, bảo vệ cộng đồng khỏi hỗn loạn. Nhưng mặt khác, nếu quyền được đặt lên trên dân, nó sẽ trở thành xiềng xích trói buộc chính những người mà nó phải phục vụ.
    Người lãnh đạo thực sự hiểu Đạo Trời không xem quyền như bậc thang vinh quang, mà như gánh nặng thiêng liêng của lòng dân. Họ biết rằng quyền lực chỉ tồn tại để gìn giữ, bảo hộ, khai sáng – chứ không phải để ép buộc, sai khiến, hay tôn thờ bản ngã.
    Khi người lãnh đạo đặt dân lên trên quyền, họ trở lại đúng bản chất của người dẫn đường, không phải kẻ đứng đầu. Bởi trong trật tự của Trời Đất, dân mới là gốc; lãnh đạo chỉ là người tạm thời được dân ủy thác trách nhiệm hành Đạo.
    Chỉ khi ấy, quyền lực mới trở nên trong sáng. Nó không còn là “quyền trên đầu người”, mà trở thành “quyền trong tay dân”. Và người lãnh đạo – thay vì được xem là người cai trị – trở thành người phục vụ cao quý nhất, vì dám cúi mình trước nguyện vọng của dân tộc, dám đặt lợi ích chung lên trên mọi ham muốn cá nhân.

    2. Sự khác biệt giữa người cầm quyền và người lãnh đạo
    Có một ranh giới rất mỏng giữa “cầm quyền” và “lãnh đạo”, nhưng hệ quả của nó là hai con đường lịch sử hoàn toàn trái ngược.
    Người cầm quyền dựa vào sức mạnh, luật lệ, mệnh lệnh.
    Người lãnh đạo dựa vào niềm tin, tấm gương, và đạo đức.
    Người cầm quyền dùng “quyền uy” để buộc người khác tuân phục.
    Người lãnh đạo dùng “tâm uy” để khiến người khác tự nguyện đi theo.
    Người cầm quyền sợ mất ghế.
    Người lãnh đạo sợ mất lòng dân.
    Một xã hội có thể tồn tại với người cầm quyền, nhưng chỉ có thể phát triển và tiến hóa khi có người lãnh đạo đích thực. Bởi khi dân chỉ bị quản lý, họ sẽ sống trong khuôn phép và sợ hãi; nhưng khi dân được dẫn dắt, họ sẽ sống trong sáng tạo và niềm ti
    HNI 27/10 - B18 🌺🌺🌺 🌺CHƯƠNG 24: KHI NGƯỜI LÃNH ĐẠO ĐẶT DÂN LÊN TRÊN QUYỀN (Trong kỷ nguyên Đạo Trời, người cầm quyền trở lại làm người phụng sự) 1. Quyền không phải để thống trị mà để phụng sự Từ khi loài người hình thành các thiết chế chính trị đầu tiên, quyền lực luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt, nó đem lại trật tự, bảo vệ cộng đồng khỏi hỗn loạn. Nhưng mặt khác, nếu quyền được đặt lên trên dân, nó sẽ trở thành xiềng xích trói buộc chính những người mà nó phải phục vụ. Người lãnh đạo thực sự hiểu Đạo Trời không xem quyền như bậc thang vinh quang, mà như gánh nặng thiêng liêng của lòng dân. Họ biết rằng quyền lực chỉ tồn tại để gìn giữ, bảo hộ, khai sáng – chứ không phải để ép buộc, sai khiến, hay tôn thờ bản ngã. Khi người lãnh đạo đặt dân lên trên quyền, họ trở lại đúng bản chất của người dẫn đường, không phải kẻ đứng đầu. Bởi trong trật tự của Trời Đất, dân mới là gốc; lãnh đạo chỉ là người tạm thời được dân ủy thác trách nhiệm hành Đạo. Chỉ khi ấy, quyền lực mới trở nên trong sáng. Nó không còn là “quyền trên đầu người”, mà trở thành “quyền trong tay dân”. Và người lãnh đạo – thay vì được xem là người cai trị – trở thành người phục vụ cao quý nhất, vì dám cúi mình trước nguyện vọng của dân tộc, dám đặt lợi ích chung lên trên mọi ham muốn cá nhân. 2. Sự khác biệt giữa người cầm quyền và người lãnh đạo Có một ranh giới rất mỏng giữa “cầm quyền” và “lãnh đạo”, nhưng hệ quả của nó là hai con đường lịch sử hoàn toàn trái ngược. Người cầm quyền dựa vào sức mạnh, luật lệ, mệnh lệnh. Người lãnh đạo dựa vào niềm tin, tấm gương, và đạo đức. Người cầm quyền dùng “quyền uy” để buộc người khác tuân phục. Người lãnh đạo dùng “tâm uy” để khiến người khác tự nguyện đi theo. Người cầm quyền sợ mất ghế. Người lãnh đạo sợ mất lòng dân. Một xã hội có thể tồn tại với người cầm quyền, nhưng chỉ có thể phát triển và tiến hóa khi có người lãnh đạo đích thực. Bởi khi dân chỉ bị quản lý, họ sẽ sống trong khuôn phép và sợ hãi; nhưng khi dân được dẫn dắt, họ sẽ sống trong sáng tạo và niềm ti
    Like
    Love
    Wow
    8
    1 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10:Bài thơ chương 18:
    Khi chính trị biết lắng nghe – dân tự cất tiếng hát
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi chính trị biết lắng nghe dân nói,
    Trời cũng cười, mây trắng hóa thanh âm.
    Không cần sáo, dân ca vang khắp chốn,
    Tự lòng người ngân khúc hát tri âm.
    Quyền lực thật là nghệ thuật lắng nghe,
    Không trên bục, mà giữa đời đồng vọng.
    Khi lãnh đạo biết cúi đầu trước lý,
    Dân sẽ nâng bằng trái tim sáng trong.
    Lắng nghe dân – chính là nghe Trời nói,
    Mỗi tiếng chân quê, mỗi giọt mồ hôi.
    Là bản nhạc của Đạo Trời soi tỏ,
    Là mệnh Trời gửi xuống giữa loài người.
    Chính trị biết nghe, dân không còn sợ,
    Vì được nói – là được sống làm người.
    Bao bức xúc hóa thành câu chuyện mới,
    Bao đau thương hóa tiếng hát vui tươi.
    Một lời dân – khởi đầu muôn cải cách,
    Một ánh nhìn – mở cánh cửa tương lai.
    Không có đối thoại, chính trị hóa lạnh,
    Có lắng nghe – xã hội sẽ nở hoa.
    Khi dân hát, là khi lòng dân thuận,
    Không ép buộc, mà tự khởi từ tin.
    Niềm vui ấy chẳng do quyền ban phát,
    Mà do hòa bình giữa Đạo và Dân.
    Chính trị khôn không nằm trong khẩu hiệu,
    Mà trong từng phản hồi chân thật.
    Nghe dân nói, rồi cùng dân hành động,
    Ấy là minh triết của người trị dân.
    Dân hát ca – không vì ai ra lệnh,
    Mà vì thấy được chính mình trong Đạo.
    Người cầm quyền không áp đặt tiếng dân,
    Chỉ khơi mạch – để dân tự ngân vang.
    Khi dân được hát, quốc gia sống dậy,
    Khi dân im lặng – thời thế suy tàn.
    Nghe tiếng dân – như nghe tiếng vũ trụ,
    Nhịp tim chung của muôn triệu nhân gian.
    HNI 27/10:📕Bài thơ chương 18: Khi chính trị biết lắng nghe – dân tự cất tiếng hát (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi chính trị biết lắng nghe dân nói, Trời cũng cười, mây trắng hóa thanh âm. Không cần sáo, dân ca vang khắp chốn, Tự lòng người ngân khúc hát tri âm. Quyền lực thật là nghệ thuật lắng nghe, Không trên bục, mà giữa đời đồng vọng. Khi lãnh đạo biết cúi đầu trước lý, Dân sẽ nâng bằng trái tim sáng trong. Lắng nghe dân – chính là nghe Trời nói, Mỗi tiếng chân quê, mỗi giọt mồ hôi. Là bản nhạc của Đạo Trời soi tỏ, Là mệnh Trời gửi xuống giữa loài người. Chính trị biết nghe, dân không còn sợ, Vì được nói – là được sống làm người. Bao bức xúc hóa thành câu chuyện mới, Bao đau thương hóa tiếng hát vui tươi. Một lời dân – khởi đầu muôn cải cách, Một ánh nhìn – mở cánh cửa tương lai. Không có đối thoại, chính trị hóa lạnh, Có lắng nghe – xã hội sẽ nở hoa. Khi dân hát, là khi lòng dân thuận, Không ép buộc, mà tự khởi từ tin. Niềm vui ấy chẳng do quyền ban phát, Mà do hòa bình giữa Đạo và Dân. Chính trị khôn không nằm trong khẩu hiệu, Mà trong từng phản hồi chân thật. Nghe dân nói, rồi cùng dân hành động, Ấy là minh triết của người trị dân. Dân hát ca – không vì ai ra lệnh, Mà vì thấy được chính mình trong Đạo. Người cầm quyền không áp đặt tiếng dân, Chỉ khơi mạch – để dân tự ngân vang. Khi dân được hát, quốc gia sống dậy, Khi dân im lặng – thời thế suy tàn. Nghe tiếng dân – như nghe tiếng vũ trụ, Nhịp tim chung của muôn triệu nhân gian.
    Love
    Like
    Yay
    10
    1 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10:Bài thơ chương 19:
    Chính trị khép kín và hậu quả cô lập xã hội
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi quyền lực tự giam trong tháp ngà,
    Dân ngoài cổng chỉ còn là tiếng vọng.
    Lời than thở chẳng qua được vách lạnh,
    Xã hội mờ như khói phủ không trung.
    Chính trị khép kín – cửa lòng đóng chặt,
    Không nghe dân, chỉ sợ mất ngai vàng.
    Khi đối thoại biến thành mệnh lệnh,
    Là lúc niềm tin mục ruỗng trong dân.
    Một triều đại sợ dân như sợ gió,
    Tức đã đánh mất gốc Đạo từ lâu.
    Càng cô lập, càng xa nguồn sinh khí,
    Càng gần hơn vực thẳm diệt vong sâu.
    Không ai có thể sống giữa cô độc,
    Huống chi là quốc gia giữa nhân gian.
    Khi dân không nói – Trời cũng im lặng,
    Khi dân xa lánh – nước mất linh hồn.
    Chính trị chân chính là dòng chảy mở,
    Nối muôn tâm, muôn ý – hợp thành sông.
    Khép kín lại, dòng Đạo hóa tù hãm,
    Quyền lực kia cũng hóa đá vô hồn.
    Những bức tường không ngăn được sự thật,
    Những hàng rào không chặn nổi lòng dân.
    Càng cố che, càng phơi ra yếu đuối,
    Càng bưng bít, càng để mất niềm tin.
    Một tiếng dân – có thể làm nên sóng,
    Một ánh nhìn – soi tỏ cả triều ngôi.
    Khi chính trị quên mất dân là gốc,
    Là tự xây mồ chôn lấy chính mình thôi.
    Chỉ khi mở – chính trị thành minh triết,
    Chỉ khi nghe – quyền lực hóa nhân tâm.
    Cửa mở rộng, dân hòa cùng lãnh đạo,
    Xã hội hưng thịnh, quốc thái dân an.
    Dân không chỉ cần cơm và áo,
    Họ cần được tôn trọng, được sẻ chia.
    Chính trị mở – như Trời dang tay đón,
    Đem cô lập tan biến giữa lòng người.
    HNI 27/10:📕Bài thơ chương 19: Chính trị khép kín và hậu quả cô lập xã hội (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi quyền lực tự giam trong tháp ngà, Dân ngoài cổng chỉ còn là tiếng vọng. Lời than thở chẳng qua được vách lạnh, Xã hội mờ như khói phủ không trung. Chính trị khép kín – cửa lòng đóng chặt, Không nghe dân, chỉ sợ mất ngai vàng. Khi đối thoại biến thành mệnh lệnh, Là lúc niềm tin mục ruỗng trong dân. Một triều đại sợ dân như sợ gió, Tức đã đánh mất gốc Đạo từ lâu. Càng cô lập, càng xa nguồn sinh khí, Càng gần hơn vực thẳm diệt vong sâu. Không ai có thể sống giữa cô độc, Huống chi là quốc gia giữa nhân gian. Khi dân không nói – Trời cũng im lặng, Khi dân xa lánh – nước mất linh hồn. Chính trị chân chính là dòng chảy mở, Nối muôn tâm, muôn ý – hợp thành sông. Khép kín lại, dòng Đạo hóa tù hãm, Quyền lực kia cũng hóa đá vô hồn. Những bức tường không ngăn được sự thật, Những hàng rào không chặn nổi lòng dân. Càng cố che, càng phơi ra yếu đuối, Càng bưng bít, càng để mất niềm tin. Một tiếng dân – có thể làm nên sóng, Một ánh nhìn – soi tỏ cả triều ngôi. Khi chính trị quên mất dân là gốc, Là tự xây mồ chôn lấy chính mình thôi. Chỉ khi mở – chính trị thành minh triết, Chỉ khi nghe – quyền lực hóa nhân tâm. Cửa mở rộng, dân hòa cùng lãnh đạo, Xã hội hưng thịnh, quốc thái dân an. Dân không chỉ cần cơm và áo, Họ cần được tôn trọng, được sẻ chia. Chính trị mở – như Trời dang tay đón, Đem cô lập tan biến giữa lòng người.
    Like
    Love
    Haha
    11
    1 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 20:
    Bài học từ các triều đại hưng – vong trong lịch sử Việt Nam và thế giới
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Lịch sử mở – trang dài như vận nước,
    Mỗi triều hưng, mỗi triều vong – một lời.
    Kẻ thuận Đạo, lòng dân hòa Trời đất,
    Người nghịch tâm, cơ nghiệp hóa mù khơi.
    Nhà Trần sáng vì dân cùng gánh nặng,
    Lê Thánh Tông trị nước bằng nhân tâm.
    Nguyễn Huệ dấy, ngọn cờ dân nghĩa rực,
    Dân tin theo, sấm dậy khắp xa gần.
    Nhà Hồ gấp – dù tài cao chí lớn,
    Nhưng lòng dân chưa kịp đắp nền sâu.
    Nhà Mạc sáng – rồi tan như khói sớm,
    Vì mất lòng, trời cũng ngoảnh nhìn đâu.
    Trên thế giới, La Mã từng lừng lẫy,
    Cũng gục ngã khi dân mất niềm tin.
    Đông phương có Tần – vạn người cúi lạy,
    Rồi vỡ tan vì áp bức, kiêu linh.
    Anh từng mạnh khi biết nghe dân nói,
    Pháp từng hưng vì mở trí nhân quyền.
    Nhật canh tân – vì dân làm gốc rễ,
    Mỹ trường tồn – do dân được nói lên.
    Không có triều đại nào vĩnh cửu,
    Nếu xa dân, thì sớm cũng tàn phai.
    Không có quốc gia nào suy đổ,
    Nếu dân còn tin, còn hát giữa tương lai.
    Lịch sử dạy – dân là dòng huyết mạch,
    Chính quyền kia chỉ là chiếc con thuyền.
    Thuyền không nước, chẳng đi về bến được,
    Nước không thuyền, vẫn tự chảy bình yên.
    Bài học lớn không ghi trong bia đá,
    Mà trong lòng muôn thế hệ cháu con.
    Triều đại hưng – vì dân làm rường cột,
    Triều đại vong – vì phản lại nhân tâm.
    Quyền không bền nếu chỉ xây trên sợ,
    Ngai không lâu nếu dựng bởi lừa dối.
    Chỉ có dân – mới là gốc của Trời,
    Giữ quốc đạo trường tồn qua vạn lối.
    Từ Việt Nam nhìn ra muôn thế giới,
    Một đạo chung, muôn nẻo vẫn cùng về:
    Dân làm chủ – Trời trao quyền chính trị,
    Thuận lòng dân – muôn kiếp chẳng hề phai.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ chương 20: Bài học từ các triều đại hưng – vong trong lịch sử Việt Nam và thế giới (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Lịch sử mở – trang dài như vận nước, Mỗi triều hưng, mỗi triều vong – một lời. Kẻ thuận Đạo, lòng dân hòa Trời đất, Người nghịch tâm, cơ nghiệp hóa mù khơi. Nhà Trần sáng vì dân cùng gánh nặng, Lê Thánh Tông trị nước bằng nhân tâm. Nguyễn Huệ dấy, ngọn cờ dân nghĩa rực, Dân tin theo, sấm dậy khắp xa gần. Nhà Hồ gấp – dù tài cao chí lớn, Nhưng lòng dân chưa kịp đắp nền sâu. Nhà Mạc sáng – rồi tan như khói sớm, Vì mất lòng, trời cũng ngoảnh nhìn đâu. Trên thế giới, La Mã từng lừng lẫy, Cũng gục ngã khi dân mất niềm tin. Đông phương có Tần – vạn người cúi lạy, Rồi vỡ tan vì áp bức, kiêu linh. Anh từng mạnh khi biết nghe dân nói, Pháp từng hưng vì mở trí nhân quyền. Nhật canh tân – vì dân làm gốc rễ, Mỹ trường tồn – do dân được nói lên. Không có triều đại nào vĩnh cửu, Nếu xa dân, thì sớm cũng tàn phai. Không có quốc gia nào suy đổ, Nếu dân còn tin, còn hát giữa tương lai. Lịch sử dạy – dân là dòng huyết mạch, Chính quyền kia chỉ là chiếc con thuyền. Thuyền không nước, chẳng đi về bến được, Nước không thuyền, vẫn tự chảy bình yên. Bài học lớn không ghi trong bia đá, Mà trong lòng muôn thế hệ cháu con. Triều đại hưng – vì dân làm rường cột, Triều đại vong – vì phản lại nhân tâm. Quyền không bền nếu chỉ xây trên sợ, Ngai không lâu nếu dựng bởi lừa dối. Chỉ có dân – mới là gốc của Trời, Giữ quốc đạo trường tồn qua vạn lối. Từ Việt Nam nhìn ra muôn thế giới, Một đạo chung, muôn nẻo vẫn cùng về: Dân làm chủ – Trời trao quyền chính trị, Thuận lòng dân – muôn kiếp chẳng hề phai.
    Love
    Like
    12
    1 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10 - B19 CHƯƠNG 25 : ĐẠO ĐỨC CHÍNH TRỊ – PHẨM CHẤT CỐT LÕI CỦA MINH QUÂN
    (Trong bộ “MINH QUÂN – MINH CHỦ – MINH TRỊ” của Henry Lê – Lê Đình Hải)

    I. ĐẠO ĐỨC – linh hồn của chính trị
    Chính trị, tự thân, không phải là nghệ thuật tranh giành quyền lực. Nó là nghệ thuật vận hành nhân tâm và trật tự xã hội theo lẽ Đạo – nơi con người được sống trong công bằng, an ổn và hướng thiện. Và yếu tố duy nhất có thể khiến chính trị trở nên “minh”, trở nên “chính danh”, đó chính là đạo đức.
    Không có đạo đức, chính trị trở thành trò ảo thuật của ngôn từ và mưu mẹo.
    Có đạo đức, chính trị trở thành ánh sáng của trí tuệ và lòng nhân.
    Từ ngàn xưa, người phương Đông đã khẳng định: “Đức trị nhi nhân phục, hình trị nhi dân gian.” Nghĩa là, dùng đạo đức mà cảm hóa, dân tự thuận theo; còn dùng pháp luật mà cưỡng ép, dân chỉ miễn cưỡng mà tuân. Bởi lẽ, pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi, nhưng đạo đức điều chỉnh tâm hồn. Một xã hội chỉ thực sự vững bền khi lòng người cùng hướng về thiện, chứ không phải khi mọi người bị ép buộc phải ngoan ngoãn.
    Vì thế, đạo đức chính trị là cốt lõi của minh quân – người hiểu rằng trị nước không phải là cai trị dân, mà là dẫn dắt dân đi về phía ánh sáng. Người lãnh đạo không thể chỉ có trí tuệ, tài năng hay tầm nhìn; bởi trí mà không đức sẽ biến thành mưu sâu kế hiểm, tài mà không đức sẽ sinh ra kiêu ngạo, tầm mà không đức sẽ thành tham vọng.
    Đức là gốc. Chính trị mất gốc thì quốc gia sụp đổ.

    II. Khi đạo đức là la bàn của quyền lực
    Quyền lực, về bản chất, là năng lượng trung tính – nó có thể tạo dựng, nhưng cũng có thể hủy diệt. Chính đạo đức là thứ định hướng cho quyền lực ấy.
    Một vị minh quân, khi nắm quyền trong tay, luôn tự nhủ: “Quyền lực này không phải của ta, mà là của dân, tạm giao cho ta gánh vác.”
    Khi người lãnh đạo còn biết sợ quyền lực, chính trị còn trong sáng.
    Khi người lãnh đạo chỉ biết sợ mất quyền lực, đạo đức đã rời khỏi ngai vàng.
    Trong mọi triều đại, khi người cầm quyền đặt lợi ích của bản thân lên trên công lý, xã hội lập tức mất phương
    HNI 27/10 - B19 🌺 CHƯƠNG 25 : ĐẠO ĐỨC CHÍNH TRỊ – PHẨM CHẤT CỐT LÕI CỦA MINH QUÂN (Trong bộ “MINH QUÂN – MINH CHỦ – MINH TRỊ” của Henry Lê – Lê Đình Hải) I. ĐẠO ĐỨC – linh hồn của chính trị Chính trị, tự thân, không phải là nghệ thuật tranh giành quyền lực. Nó là nghệ thuật vận hành nhân tâm và trật tự xã hội theo lẽ Đạo – nơi con người được sống trong công bằng, an ổn và hướng thiện. Và yếu tố duy nhất có thể khiến chính trị trở nên “minh”, trở nên “chính danh”, đó chính là đạo đức. Không có đạo đức, chính trị trở thành trò ảo thuật của ngôn từ và mưu mẹo. Có đạo đức, chính trị trở thành ánh sáng của trí tuệ và lòng nhân. Từ ngàn xưa, người phương Đông đã khẳng định: “Đức trị nhi nhân phục, hình trị nhi dân gian.” Nghĩa là, dùng đạo đức mà cảm hóa, dân tự thuận theo; còn dùng pháp luật mà cưỡng ép, dân chỉ miễn cưỡng mà tuân. Bởi lẽ, pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi, nhưng đạo đức điều chỉnh tâm hồn. Một xã hội chỉ thực sự vững bền khi lòng người cùng hướng về thiện, chứ không phải khi mọi người bị ép buộc phải ngoan ngoãn. Vì thế, đạo đức chính trị là cốt lõi của minh quân – người hiểu rằng trị nước không phải là cai trị dân, mà là dẫn dắt dân đi về phía ánh sáng. Người lãnh đạo không thể chỉ có trí tuệ, tài năng hay tầm nhìn; bởi trí mà không đức sẽ biến thành mưu sâu kế hiểm, tài mà không đức sẽ sinh ra kiêu ngạo, tầm mà không đức sẽ thành tham vọng. Đức là gốc. Chính trị mất gốc thì quốc gia sụp đổ. II. Khi đạo đức là la bàn của quyền lực Quyền lực, về bản chất, là năng lượng trung tính – nó có thể tạo dựng, nhưng cũng có thể hủy diệt. Chính đạo đức là thứ định hướng cho quyền lực ấy. Một vị minh quân, khi nắm quyền trong tay, luôn tự nhủ: “Quyền lực này không phải của ta, mà là của dân, tạm giao cho ta gánh vác.” Khi người lãnh đạo còn biết sợ quyền lực, chính trị còn trong sáng. Khi người lãnh đạo chỉ biết sợ mất quyền lực, đạo đức đã rời khỏi ngai vàng. Trong mọi triều đại, khi người cầm quyền đặt lợi ích của bản thân lên trên công lý, xã hội lập tức mất phương
    Like
    Love
    Wow
    9
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 26/10 - BÀI THƠ CHƯƠNG 1 :
    Ý NGHĨA BẤT TỬ CỦA VĂN CHƯƠNG

    Văn chương – ngọn lửa từ ngàn xưa,
    Soi bóng nhân gian giữa nắng mưa.
    Ghi lại tiếng lòng bao thế hệ,
    Kết nối hồn người chẳng xóa nhòa.
    Trang sách mở ra như cánh cửa,
    Dẫn ta vào cõi mộng vô biên.
    Ở đó niềm đau thành ánh sáng,
    Nỗi buồn hóa nhạc giữa bình yên.

    Từ ca dao, tiếng ru nồng thuở nhỏ,
    Đến bản trường ca dựng nước ngàn năm.
    Từng chữ gieo hồn như hạt giống,
    Ươm mầm nhân nghĩa giữa trần gian.

    Văn học – chứng nhân bao đổi thay,
    Ngẩng đầu giữa gió bụi tháng ngày.
    Khi con người còn khát khao sống,
    Thì văn chương còn bất tử nơi đây.

    Không có văn chương, đời khô cạn,
    Không có lời thơ, tim lạnh lùng.
    Chính bởi ngôn từ mà nhân loại,
    Biết yêu, biết khóc, biết anh hùng.

    Ôi, sức mạnh lặng thầm bất tử,
    Khắc trên giấy trắng dấu chân người.
    Văn học chẳng già, không chết,
    Mà hóa thành vĩnh viễn muôn đời.
    Đọc ít hơn

    Đọc thêm
    HNI 26/10 - BÀI THƠ CHƯƠNG 1 : Ý NGHĨA BẤT TỬ CỦA VĂN CHƯƠNG Văn chương – ngọn lửa từ ngàn xưa, Soi bóng nhân gian giữa nắng mưa. Ghi lại tiếng lòng bao thế hệ, Kết nối hồn người chẳng xóa nhòa. Trang sách mở ra như cánh cửa, Dẫn ta vào cõi mộng vô biên. Ở đó niềm đau thành ánh sáng, Nỗi buồn hóa nhạc giữa bình yên. Từ ca dao, tiếng ru nồng thuở nhỏ, Đến bản trường ca dựng nước ngàn năm. Từng chữ gieo hồn như hạt giống, Ươm mầm nhân nghĩa giữa trần gian. Văn học – chứng nhân bao đổi thay, Ngẩng đầu giữa gió bụi tháng ngày. Khi con người còn khát khao sống, Thì văn chương còn bất tử nơi đây. Không có văn chương, đời khô cạn, Không có lời thơ, tim lạnh lùng. Chính bởi ngôn từ mà nhân loại, Biết yêu, biết khóc, biết anh hùng. Ôi, sức mạnh lặng thầm bất tử, Khắc trên giấy trắng dấu chân người. Văn học chẳng già, không chết, Mà hóa thành vĩnh viễn muôn đời. Đọc ít hơn Đọc thêm
    Like
    Love
    Wow
    Angry
    9
    0 Comments 0 Shares