• https://youtu.be/OLV9tmUU2OA?si=khXYrYzultYzkYU6
    https://youtu.be/OLV9tmUU2OA?si=khXYrYzultYzkYU6
    Love
    Haha
    4
    2 Comments 0 Shares
  • https://youtu.be/Wbps95JCBd4?si=RJ5yOlxhLAyzwiPX
    https://youtu.be/Wbps95JCBd4?si=RJ5yOlxhLAyzwiPX
    Love
    4
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 30/10: Bài thơ chương 8:
    BÀI THƠ: CHÍNH TRỊ NHƯ NGHỆ THUẬT ĐIỀU HÒA NĂNG LƯỢNG CỘNG ĐỒNG
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính trị chẳng phải trò quyền biến đoạt danh,
    Mà là nghệ thuật điều hòa lòng người, năng lượng.
    Không gươm giáo, chẳng mưu sâu kế hiểm,
    Chỉ một nhịp tâm an – cũng hóa bình thiên hạ.
    Nơi cộng đồng, năng lượng xoay vòng như mạch,
    Lúc thịnh, lúc suy – như thuỷ triều vơi đầy.
    Bậc trị quốc không cưỡng, không vội ép,
    Mà thuận dòng – đưa nước chảy về sông.
    Chính trị, nếu chỉ thấy quyền trong danh lợi,
    Sẽ biến dân thành công cụ cho một người.
    Nhưng khi hiểu quyền là luồng năng lượng sống,
    Thì lãnh đạo là người truyền dẫn yêu thương.
    Người lãnh đạo như người giữ nhịp đàn,
    Biết nâng cao khi lòng dân đang trỗi.
    Biết hạ xuống khi hận thù vừa dậy sóng,
    Để âm vang cộng đồng lại trở nên hài hòa.
    Mỗi tiếng nói, mỗi hành động là rung động,
    Chính trị là nghệ thuật cảm nhận tần số dân.
    Người trị thế không nghe bằng tai, bằng mắt,
    Mà nghe bằng lòng – thấy bằng ánh sáng trong.
    Có khi cần nói, nhưng nhiều khi cần lặng,
    Vì năng lượng dân làn sóng chẳng cần lời.
    Một quyết định sai có thể lay trời đất,
    Một im lặng đúng – giữ vững cả non sông.
    Năng lượng cộng đồng – ấy là ý Trời trong dân,
    Bậc lãnh đạo chỉ là người dẫn luồng khí ấy.
    Không chiếm, không nắm, không khống chế,
    Mà khai thông – để Đạo tự vận hành.
    Chính trị là giữ cân bằng giữa âm và dương,
    Giữa hành động và tĩnh tâm trong trí.
    Khi dân nóng, cần người biết làm mát,
    Khi dân lạnh, cần người nhóm lửa nhân tâm.
    Không ai trị được dân bằng ép buộc,
    Chỉ người hòa được dân bằng năng lượng yêu thương.
    Quyền lực chân chính là quyền của sự lắng nghe,
    Và chính trị viên là người điều khí của lòng người.
    Kết:
    Chính trị là nghệ thuật – không phải cuộc tranh quyền,
    Là điều hòa nguồn năng lượng chung nhân loại.
    Khi mỗi trái tim cùng rung trong tần số Đạo,
    Thì quốc gia yên – mà chẳng cần tới gươm đao.
    HNI 30/10: 📕Bài thơ chương 8: BÀI THƠ: CHÍNH TRỊ NHƯ NGHỆ THUẬT ĐIỀU HÒA NĂNG LƯỢNG CỘNG ĐỒNG Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Chính trị chẳng phải trò quyền biến đoạt danh, Mà là nghệ thuật điều hòa lòng người, năng lượng. Không gươm giáo, chẳng mưu sâu kế hiểm, Chỉ một nhịp tâm an – cũng hóa bình thiên hạ. Nơi cộng đồng, năng lượng xoay vòng như mạch, Lúc thịnh, lúc suy – như thuỷ triều vơi đầy. Bậc trị quốc không cưỡng, không vội ép, Mà thuận dòng – đưa nước chảy về sông. Chính trị, nếu chỉ thấy quyền trong danh lợi, Sẽ biến dân thành công cụ cho một người. Nhưng khi hiểu quyền là luồng năng lượng sống, Thì lãnh đạo là người truyền dẫn yêu thương. Người lãnh đạo như người giữ nhịp đàn, Biết nâng cao khi lòng dân đang trỗi. Biết hạ xuống khi hận thù vừa dậy sóng, Để âm vang cộng đồng lại trở nên hài hòa. Mỗi tiếng nói, mỗi hành động là rung động, Chính trị là nghệ thuật cảm nhận tần số dân. Người trị thế không nghe bằng tai, bằng mắt, Mà nghe bằng lòng – thấy bằng ánh sáng trong. Có khi cần nói, nhưng nhiều khi cần lặng, Vì năng lượng dân làn sóng chẳng cần lời. Một quyết định sai có thể lay trời đất, Một im lặng đúng – giữ vững cả non sông. Năng lượng cộng đồng – ấy là ý Trời trong dân, Bậc lãnh đạo chỉ là người dẫn luồng khí ấy. Không chiếm, không nắm, không khống chế, Mà khai thông – để Đạo tự vận hành. Chính trị là giữ cân bằng giữa âm và dương, Giữa hành động và tĩnh tâm trong trí. Khi dân nóng, cần người biết làm mát, Khi dân lạnh, cần người nhóm lửa nhân tâm. Không ai trị được dân bằng ép buộc, Chỉ người hòa được dân bằng năng lượng yêu thương. Quyền lực chân chính là quyền của sự lắng nghe, Và chính trị viên là người điều khí của lòng người. Kết: Chính trị là nghệ thuật – không phải cuộc tranh quyền, Là điều hòa nguồn năng lượng chung nhân loại. Khi mỗi trái tim cùng rung trong tần số Đạo, Thì quốc gia yên – mà chẳng cần tới gươm đao.
    Love
    Like
    5
    0 Comments 0 Shares
  • https://youtu.be/nJtmq_kNbVE?si=O52RGjCM_PeuXMtR
    https://youtu.be/nJtmq_kNbVE?si=O52RGjCM_PeuXMtR
    Love
    3
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 30/10: BÀI THƠ CHƯƠNG 9: ẢNH HƯỞNG VĂN HỌC THẾ GIỚI ĐỐI VỚI VIỆT NAM
    Từ thuở xưa, tiếng sóng ngoài khơi xa,
    Mang trang sách từ muôn miền đất lạ,
    Bước chân người, mở giao lưu văn hóa,
    Đem tinh hoa về góp nhịp sông Hồng.
    Văn học thế giới – ngọn gió mênh mông,
    Tỏa hương sáng vào hồn thơ đất Việt,
    Từ triết học Đông – Tây chan hòa, bất diệt,
    Đến khúc ca nhân bản, tự do.
    Những bản trường ca Hy Lạp, La Mã,
    Ngợi ca người hùng, ý chí kiên cường,
    Đã gieo vào lòng dân tộc quê hương,
    Khát vọng đứng lên, làm chủ vận mệnh.
    Ánh sáng nhân văn từ văn chương Âu Mỹ,
    Thắp ngọn đèn dân chủ, tự do,
    Khơi dậy niềm tin, chống lại ngoại xâm,
    Viết bản anh hùng ca bất tận.
    Từ thi ca Trung Hoa mộng mị,
    Đến truyện Kiều nâng tầm văn chương,
    Từ triết lý Phật giáo, Nho gia,
    Đến tư tưởng nhân quyền của nhân loại.
    Văn học Việt Nam – dòng sông tiếp nhận,
    Nhưng chẳng bao giờ mất gốc nguồn thiêng,
    Biết chắt lọc, biến thành sức mạnh riêng,
    Dung hợp bốn phương thành bản sắc Việt.
    Ảnh hưởng thế giới, là dòng suối ngọt,
    Nuôi tâm hồn, mở trí tuệ con dân,
    Để văn học Việt Nam tỏa sáng muôn lần,
    Sánh vai cùng nhân loại – rực rỡ.
    HNI 30/10: 📕BÀI THƠ CHƯƠNG 9: ẢNH HƯỞNG VĂN HỌC THẾ GIỚI ĐỐI VỚI VIỆT NAM Từ thuở xưa, tiếng sóng ngoài khơi xa, Mang trang sách từ muôn miền đất lạ, Bước chân người, mở giao lưu văn hóa, Đem tinh hoa về góp nhịp sông Hồng. Văn học thế giới – ngọn gió mênh mông, Tỏa hương sáng vào hồn thơ đất Việt, Từ triết học Đông – Tây chan hòa, bất diệt, Đến khúc ca nhân bản, tự do. Những bản trường ca Hy Lạp, La Mã, Ngợi ca người hùng, ý chí kiên cường, Đã gieo vào lòng dân tộc quê hương, Khát vọng đứng lên, làm chủ vận mệnh. Ánh sáng nhân văn từ văn chương Âu Mỹ, Thắp ngọn đèn dân chủ, tự do, Khơi dậy niềm tin, chống lại ngoại xâm, Viết bản anh hùng ca bất tận. Từ thi ca Trung Hoa mộng mị, Đến truyện Kiều nâng tầm văn chương, Từ triết lý Phật giáo, Nho gia, Đến tư tưởng nhân quyền của nhân loại. Văn học Việt Nam – dòng sông tiếp nhận, Nhưng chẳng bao giờ mất gốc nguồn thiêng, Biết chắt lọc, biến thành sức mạnh riêng, Dung hợp bốn phương thành bản sắc Việt. Ảnh hưởng thế giới, là dòng suối ngọt, Nuôi tâm hồn, mở trí tuệ con dân, Để văn học Việt Nam tỏa sáng muôn lần, Sánh vai cùng nhân loại – rực rỡ.
    Love
    Like
    5
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 24/10 - B25 CHƯƠNG 10: KHI QUYỀN LỰC THUẬN ĐẠO – QUỐC GIA THỊNH, DÂN AN

    I. Quyền lực và Đạo – hai dòng chảy cần hòa làm một
    Quyền lực, tự thân, chỉ là năng lượng trung tính. Nó không xấu cũng chẳng tốt. Nó chỉ là sức mạnh được trao để kiến tạo, bảo vệ, điều hành. Nhưng chính cách con người sử dụng quyền lực mới quyết định: xã hội thịnh hay suy, dân chúng hạnh phúc hay khổ đau.
    Đạo – là nguyên tắc của Trời, là trật tự vận hành của vũ trụ. Khi quyền lực vận hành thuận theo Đạo, mọi dòng năng lượng trong xã hội trở nên hài hòa, cân bằng. Khi quyền lực nghịch Đạo, thì cũng như con người chống lại mạch nước – càng cố bơi ngược, càng kiệt sức, cuối cùng bị cuốn trôi bởi chính dòng chảy mình muốn kiểm soát.
    Một vị lãnh đạo thuận Đạo không trị dân bằng mệnh lệnh, mà cảm hóa họ bằng phẩm đức. Không cai trị bằng sợ hãi, mà dẫn dắt bằng niềm tin. Không dựa vào quyền uy, mà dựa vào lòng người. Vì khi lòng dân thuận, Đạo Trời cũng thuận – và quốc gia sẽ tự nhiên thịnh.
    Đạo không phải là một tôn giáo, càng không phải một giáo điều. Đạo là trật tự tự nhiên mà Trời đã đặt sẵn: nơi có nhân nghĩa, thì sinh thịnh vượng; nơi có công bằng, thì sinh ổn định; nơi có trí tuệ, thì sinh minh triết; nơi có từ bi, thì sinh hòa bình. Mọi quyền lực trái ngược với bốn gốc ấy, sớm muộn cũng tự sụp đổ.

    II. Khi quyền lực thuận Đạo, dân tự tin – quốc tự cường
    Một quốc gia không thể hưng thịnh chỉ nhờ vào luật pháp hay vũ lực, mà cần một năng lượng vô hình: niềm tin vào công lý và đạo lý. Khi người dân tin rằng người lãnh đạo của họ sống thuận Đạo, làm vì dân, không tham quyền, không tham lợi, thì họ sẵn sàng gánh vác, cống hiến, và bảo vệ đất nước như chính thân thể mình.
    Thuận Đạo là biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Là hiểu rằng “được lòng dân là được Trời, mất lòng dân là mất mệnh”. Khi người cầm quyền xem dân như con, chứ không như công cụ, thì dân sẽ xem vua như cha mẹ. Đó là mối quan hệ “Trời – Dân – Vua” hòa hợp, từng tạo nên các triều đại hưng thịnh nhất trong lịch sử.
    HNI 24/10 - B25 🌺🌺🌺CHƯƠNG 10: KHI QUYỀN LỰC THUẬN ĐẠO – QUỐC GIA THỊNH, DÂN AN I. Quyền lực và Đạo – hai dòng chảy cần hòa làm một Quyền lực, tự thân, chỉ là năng lượng trung tính. Nó không xấu cũng chẳng tốt. Nó chỉ là sức mạnh được trao để kiến tạo, bảo vệ, điều hành. Nhưng chính cách con người sử dụng quyền lực mới quyết định: xã hội thịnh hay suy, dân chúng hạnh phúc hay khổ đau. Đạo – là nguyên tắc của Trời, là trật tự vận hành của vũ trụ. Khi quyền lực vận hành thuận theo Đạo, mọi dòng năng lượng trong xã hội trở nên hài hòa, cân bằng. Khi quyền lực nghịch Đạo, thì cũng như con người chống lại mạch nước – càng cố bơi ngược, càng kiệt sức, cuối cùng bị cuốn trôi bởi chính dòng chảy mình muốn kiểm soát. Một vị lãnh đạo thuận Đạo không trị dân bằng mệnh lệnh, mà cảm hóa họ bằng phẩm đức. Không cai trị bằng sợ hãi, mà dẫn dắt bằng niềm tin. Không dựa vào quyền uy, mà dựa vào lòng người. Vì khi lòng dân thuận, Đạo Trời cũng thuận – và quốc gia sẽ tự nhiên thịnh. Đạo không phải là một tôn giáo, càng không phải một giáo điều. Đạo là trật tự tự nhiên mà Trời đã đặt sẵn: nơi có nhân nghĩa, thì sinh thịnh vượng; nơi có công bằng, thì sinh ổn định; nơi có trí tuệ, thì sinh minh triết; nơi có từ bi, thì sinh hòa bình. Mọi quyền lực trái ngược với bốn gốc ấy, sớm muộn cũng tự sụp đổ. II. Khi quyền lực thuận Đạo, dân tự tin – quốc tự cường Một quốc gia không thể hưng thịnh chỉ nhờ vào luật pháp hay vũ lực, mà cần một năng lượng vô hình: niềm tin vào công lý và đạo lý. Khi người dân tin rằng người lãnh đạo của họ sống thuận Đạo, làm vì dân, không tham quyền, không tham lợi, thì họ sẵn sàng gánh vác, cống hiến, và bảo vệ đất nước như chính thân thể mình. Thuận Đạo là biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Là hiểu rằng “được lòng dân là được Trời, mất lòng dân là mất mệnh”. Khi người cầm quyền xem dân như con, chứ không như công cụ, thì dân sẽ xem vua như cha mẹ. Đó là mối quan hệ “Trời – Dân – Vua” hòa hợp, từng tạo nên các triều đại hưng thịnh nhất trong lịch sử.
    Love
    Haha
    3
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 24/10 - B25 CHƯƠNG 10: KHI QUYỀN LỰC THUẬN ĐẠO – QUỐC GIA THỊNH, DÂN AN

    I. Quyền lực và Đạo – hai dòng chảy cần hòa làm một
    Quyền lực, tự thân, chỉ là năng lượng trung tính. Nó không xấu cũng chẳng tốt. Nó chỉ là sức mạnh được trao để kiến tạo, bảo vệ, điều hành. Nhưng chính cách con người sử dụng quyền lực mới quyết định: xã hội thịnh hay suy, dân chúng hạnh phúc hay khổ đau.
    Đạo – là nguyên tắc của Trời, là trật tự vận hành của vũ trụ. Khi quyền lực vận hành thuận theo Đạo, mọi dòng năng lượng trong xã hội trở nên hài hòa, cân bằng. Khi quyền lực nghịch Đạo, thì cũng như con người chống lại mạch nước – càng cố bơi ngược, càng kiệt sức, cuối cùng bị cuốn trôi bởi chính dòng chảy mình muốn kiểm soát.
    Một vị lãnh đạo thuận Đạo không trị dân bằng mệnh lệnh, mà cảm hóa họ bằng phẩm đức. Không cai trị bằng sợ hãi, mà dẫn dắt bằng niềm tin. Không dựa vào quyền uy, mà dựa vào lòng người. Vì khi lòng dân thuận, Đạo Trời cũng thuận – và quốc gia sẽ tự nhiên thịnh.
    Đạo không phải là một tôn giáo, càng không phải một giáo điều. Đạo là trật tự tự nhiên mà Trời đã đặt sẵn: nơi có nhân nghĩa, thì sinh thịnh vượng; nơi có công bằng, thì sinh ổn định; nơi có trí tuệ, thì sinh minh triết; nơi có từ bi, thì sinh hòa bình. Mọi quyền lực trái ngược với bốn gốc ấy, sớm muộn cũng tự sụp đổ.

    II. Khi quyền lực thuận Đạo, dân tự tin – quốc tự cường
    Một quốc gia không thể hưng thịnh chỉ nhờ vào luật pháp hay vũ lực, mà cần một năng lượng vô hình: niềm tin vào công lý và đạo lý. Khi người dân tin rằng người lãnh đạo của họ sống thuận Đạo, làm vì dân, không tham quyền, không tham lợi, thì họ sẵn sàng gánh vác, cống hiến, và bảo vệ đất nước như chính thân thể mình.
    Thuận Đạo là biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Là hiểu rằng “được lòng dân là được Trời, mất lòng dân là mất mệnh”. Khi người cầm quyền xem dân như con, chứ không như công cụ, thì dân sẽ xem vua như cha mẹ. Đó là mối quan hệ “Trời – Dân – Vua” hòa hợp, từng tạo nên các triều đại hưng thịnh nhất trong lịch sử.
    HNI 24/10 - B25 🌺🌺🌺CHƯƠNG 10: KHI QUYỀN LỰC THUẬN ĐẠO – QUỐC GIA THỊNH, DÂN AN I. Quyền lực và Đạo – hai dòng chảy cần hòa làm một Quyền lực, tự thân, chỉ là năng lượng trung tính. Nó không xấu cũng chẳng tốt. Nó chỉ là sức mạnh được trao để kiến tạo, bảo vệ, điều hành. Nhưng chính cách con người sử dụng quyền lực mới quyết định: xã hội thịnh hay suy, dân chúng hạnh phúc hay khổ đau. Đạo – là nguyên tắc của Trời, là trật tự vận hành của vũ trụ. Khi quyền lực vận hành thuận theo Đạo, mọi dòng năng lượng trong xã hội trở nên hài hòa, cân bằng. Khi quyền lực nghịch Đạo, thì cũng như con người chống lại mạch nước – càng cố bơi ngược, càng kiệt sức, cuối cùng bị cuốn trôi bởi chính dòng chảy mình muốn kiểm soát. Một vị lãnh đạo thuận Đạo không trị dân bằng mệnh lệnh, mà cảm hóa họ bằng phẩm đức. Không cai trị bằng sợ hãi, mà dẫn dắt bằng niềm tin. Không dựa vào quyền uy, mà dựa vào lòng người. Vì khi lòng dân thuận, Đạo Trời cũng thuận – và quốc gia sẽ tự nhiên thịnh. Đạo không phải là một tôn giáo, càng không phải một giáo điều. Đạo là trật tự tự nhiên mà Trời đã đặt sẵn: nơi có nhân nghĩa, thì sinh thịnh vượng; nơi có công bằng, thì sinh ổn định; nơi có trí tuệ, thì sinh minh triết; nơi có từ bi, thì sinh hòa bình. Mọi quyền lực trái ngược với bốn gốc ấy, sớm muộn cũng tự sụp đổ. II. Khi quyền lực thuận Đạo, dân tự tin – quốc tự cường Một quốc gia không thể hưng thịnh chỉ nhờ vào luật pháp hay vũ lực, mà cần một năng lượng vô hình: niềm tin vào công lý và đạo lý. Khi người dân tin rằng người lãnh đạo của họ sống thuận Đạo, làm vì dân, không tham quyền, không tham lợi, thì họ sẵn sàng gánh vác, cống hiến, và bảo vệ đất nước như chính thân thể mình. Thuận Đạo là biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Là hiểu rằng “được lòng dân là được Trời, mất lòng dân là mất mệnh”. Khi người cầm quyền xem dân như con, chứ không như công cụ, thì dân sẽ xem vua như cha mẹ. Đó là mối quan hệ “Trời – Dân – Vua” hòa hợp, từng tạo nên các triều đại hưng thịnh nhất trong lịch sử.
    Love
    4
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 30/10: BÀI THƠ CHƯƠNG 10: HÀNH TRÌNH ĐỌC VIẾT CỦA HỌC SINH CẤP 3
    (Dưới góc nhìn của HenryLe – Lê Đình Hải)
    Trang giấy trắng mở ra vạn nẻo,
    Chữ đầu tiên run rẩy như mầm non.
    Mắt học trò nhìn trang sách sáng tròn,
    Mỗi con chữ hóa thành nhịp đập trái tim tuổi trẻ.
    Đọc – không chỉ là ngắm dòng chữ,
    Mà lắng nghe tiếng vọng của nhân gian.
    Viết – không chỉ là nét mực trên trang,
    Mà gieo hạt ý tưởng vào cánh đồng tri thức.
    HenryLe nhìn hành trình ấy dài sâu,
    Như dòng sông lớn nuôi dưỡng phù sa cho đất học.
    Mỗi cuốn sách – một người thầy im lặng,
    Mỗi bài viết – một bước chân khẳng định bản thân.
    Cấp 3, nơi hồn thơ gặp logic,
    Nơi triết lý sống song hành cùng giấc mơ.
    Đọc để biết mình nhỏ bé giữa vũ trụ,
    Viết để thấy mình lớn lên từng ngày.
    Và trên con đường chữ nghĩa,
    Người học trò chẳng đơn độc bao giờ.
    Văn học, tri thức, tình thương – ba ngọn đèn soi sáng,
    Đưa thế hệ mai sau đi qua bóng tối để tìm mặt trời.
    HNI 30/10: 📕 BÀI THƠ CHƯƠNG 10: HÀNH TRÌNH ĐỌC VIẾT CỦA HỌC SINH CẤP 3 (Dưới góc nhìn của HenryLe – Lê Đình Hải) Trang giấy trắng mở ra vạn nẻo, Chữ đầu tiên run rẩy như mầm non. Mắt học trò nhìn trang sách sáng tròn, Mỗi con chữ hóa thành nhịp đập trái tim tuổi trẻ. Đọc – không chỉ là ngắm dòng chữ, Mà lắng nghe tiếng vọng của nhân gian. Viết – không chỉ là nét mực trên trang, Mà gieo hạt ý tưởng vào cánh đồng tri thức. HenryLe nhìn hành trình ấy dài sâu, Như dòng sông lớn nuôi dưỡng phù sa cho đất học. Mỗi cuốn sách – một người thầy im lặng, Mỗi bài viết – một bước chân khẳng định bản thân. Cấp 3, nơi hồn thơ gặp logic, Nơi triết lý sống song hành cùng giấc mơ. Đọc để biết mình nhỏ bé giữa vũ trụ, Viết để thấy mình lớn lên từng ngày. Và trên con đường chữ nghĩa, Người học trò chẳng đơn độc bao giờ. Văn học, tri thức, tình thương – ba ngọn đèn soi sáng, Đưa thế hệ mai sau đi qua bóng tối để tìm mặt trời.
    Love
    Like
    6
    0 Comments 0 Shares
  • https://youtu.be/myBcdGkEJjY?si=3y9sXHOT5oS8jmHj
    https://youtu.be/myBcdGkEJjY?si=3y9sXHOT5oS8jmHj
    Love
    Angry
    5
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 30/10 - B26 BÀI THƠ CHƯƠNG 6 :
    BÀI THƠ: CHÍNH DANH – NỀN TẢNG CỦA MỌI CHẾ ĐỘ BỀN VỮNG
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính danh là gốc của muôn điều trị quốc,
    Không danh chính, lời nói hóa hư không.
    Ngai vàng dựng trên cát, sớm muộn cũng tan,
    Chỉ danh nghĩa chính mới trường tồn cùng Đạo.
    Người lãnh đạo chẳng vì mình mà lập danh,
    Mà vì dân, vì nghĩa, vì cội nguồn nhân loại.
    Một danh xưng chỉ sáng khi lòng trong suốt,
    Khi quyền lực gắn cùng đạo lý và nhân tâm.
    Danh không thật – vỏ rỗng của quyền uy,
    Gió thoảng qua, cuốn theo cả ngai và ấn.
    Chính danh – là danh từ Trời ban, dân thuận,
    Là ánh sáng soi đường giữa thời loạn mịt mù.
    Khi chính danh, lời vua cũng là lời Dân,
    Mệnh Trời hợp, nước tự nhiên hưng thịnh.
    Khi giả danh, lời người chỉ là vọng tưởng,
    Trời ngoảnh mặt, dân oán, quốc suy tàn.
    Chính danh chẳng cần ngôi cao mà có đạo,
    Một người ngay cũng làm gương cho ngàn thế hệ.
    Không danh mà chính – dân vẫn nghe, vẫn tin,
    Có danh mà tà – dân vẫn tránh, vẫn nghi.
    Bậc minh quân hiểu sâu hai chữ “chính danh”,
    Không tranh ngôi, chỉ dựng trật tự của Trời.
    Biết đặt dân lên trước, bản thân lùi lại,
    Chính ngay trong tâm – danh tự nhiên sáng rực.
    Khi vua không chính, quần thần hóa loạn,
    Khi quan giả danh, phép nước tan tành.
    Một triều đại tồn vong không bởi pháp,
    Mà bởi lòng dân có thuận danh hay không.
    Chính danh là chiếc cầu giữa Trời và người,
    Là sợi chỉ nối đạo lý cùng quyền lực.
    Cầu ấy gãy – nước nhà chìm trong hỗn loạn,
    Cầu ấy vững – quốc gia mãi trường tồn.
    Không chính danh, ngàn lời răn vô nghĩa,
    Không chính danh, hiền tài chẳng được dùng.
    Chính danh là gốc rễ của lòng tin xã hội,
    Là nền đá cho mọi triều đại vươn xa.
    Bởi thế, ai cầm quyền hãy tự hỏi chính mình:
    Danh ta có hợp đạo, hợp lòng dân chăng?
    Nếu danh hư mà vẫn giữ – là nghịch Trời,
    Nếu danh thật mà dám lui – ấy là thuận Đạo.
    Chính danh không phải chỉ ở ngôi vua,
    Mỗi người dân đều mang danh nghĩa của mình.
    Khi danh và thực thống nhất, xã hội bình an,
    Khi danh và thực ly tan, thời thế đảo điên.
    Ý thơ khép lại:
    Chí
    HNI 30/10 - B26 📕 BÀI THƠ CHƯƠNG 6 : BÀI THƠ: CHÍNH DANH – NỀN TẢNG CỦA MỌI CHẾ ĐỘ BỀN VỮNG Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Chính danh là gốc của muôn điều trị quốc, Không danh chính, lời nói hóa hư không. Ngai vàng dựng trên cát, sớm muộn cũng tan, Chỉ danh nghĩa chính mới trường tồn cùng Đạo. Người lãnh đạo chẳng vì mình mà lập danh, Mà vì dân, vì nghĩa, vì cội nguồn nhân loại. Một danh xưng chỉ sáng khi lòng trong suốt, Khi quyền lực gắn cùng đạo lý và nhân tâm. Danh không thật – vỏ rỗng của quyền uy, Gió thoảng qua, cuốn theo cả ngai và ấn. Chính danh – là danh từ Trời ban, dân thuận, Là ánh sáng soi đường giữa thời loạn mịt mù. Khi chính danh, lời vua cũng là lời Dân, Mệnh Trời hợp, nước tự nhiên hưng thịnh. Khi giả danh, lời người chỉ là vọng tưởng, Trời ngoảnh mặt, dân oán, quốc suy tàn. Chính danh chẳng cần ngôi cao mà có đạo, Một người ngay cũng làm gương cho ngàn thế hệ. Không danh mà chính – dân vẫn nghe, vẫn tin, Có danh mà tà – dân vẫn tránh, vẫn nghi. Bậc minh quân hiểu sâu hai chữ “chính danh”, Không tranh ngôi, chỉ dựng trật tự của Trời. Biết đặt dân lên trước, bản thân lùi lại, Chính ngay trong tâm – danh tự nhiên sáng rực. Khi vua không chính, quần thần hóa loạn, Khi quan giả danh, phép nước tan tành. Một triều đại tồn vong không bởi pháp, Mà bởi lòng dân có thuận danh hay không. Chính danh là chiếc cầu giữa Trời và người, Là sợi chỉ nối đạo lý cùng quyền lực. Cầu ấy gãy – nước nhà chìm trong hỗn loạn, Cầu ấy vững – quốc gia mãi trường tồn. Không chính danh, ngàn lời răn vô nghĩa, Không chính danh, hiền tài chẳng được dùng. Chính danh là gốc rễ của lòng tin xã hội, Là nền đá cho mọi triều đại vươn xa. Bởi thế, ai cầm quyền hãy tự hỏi chính mình: Danh ta có hợp đạo, hợp lòng dân chăng? Nếu danh hư mà vẫn giữ – là nghịch Trời, Nếu danh thật mà dám lui – ấy là thuận Đạo. Chính danh không phải chỉ ở ngôi vua, Mỗi người dân đều mang danh nghĩa của mình. Khi danh và thực thống nhất, xã hội bình an, Khi danh và thực ly tan, thời thế đảo điên. Ý thơ khép lại: Chí
    Love
    4
    0 Comments 0 Shares