Pinned Post
HNI 26/10
THÔNG CÁO BÁO CHÍ
LỄ CÔNG BỐ THẺ HOÀNG ĐẾ – HỆ SINH THÁI HBANKS – HCOIN
VINH DANH CHỦ TỊCH HỆ SINH THÁI HENRYLE – LÊ ĐÌNH HẢI

Hôm nay, Hệ Sinh Thái Hbanks – Hcoin trân trọng công bố Lễ Ra Mắt Thẻ Chủ Thể Hoàng Đế (Imperial Card), biểu tượng cao nhất trong hệ thống nhận diện thành viên, được trao tặng cho Chủ tịch Hệ Sinh Thái henryle – Lê Đình Hải, người đặt nền móng, định hướng và dẫn dắt cộng đồng phát triển trên giá trị Trí tuệ – Tình thương – Kết nối – Thịnh vượng bền vững.



🎖 Ý Nghĩa Của Thẻ Hoàng Đế

Thẻ Hoàng Đế là cấp độ cao nhất trong hệ thống thẻ đa năng Hbanks, mang giá trị:
• Xác thực Chủ Thể trung tâm của hệ sinh thái
• Biểu tượng tầm nhìn chiến lược và vai trò dẫn dắt
• Dấu ấn lịch sử của hành trình xây dựng cộng đồng
• Tinh thần phụng sự và kiến tạo giá trị bền vững

Khác với thẻ tài chính hay công cụ thanh toán, Thẻ Hoàng Đế là thẻ danh dự – thẻ nhận diện – thẻ văn hóa – thẻ biểu tượng.



Thiết Kế Thẻ Hoàng Đế – Phiên Bản Đặc Biệt

Thẻ được chế tác theo phong cách Hoàng Kim Mặt Trời, với:
• Nền kim cương đa tầng tán quang
• Viền ánh sáng năng lượng hoàng gia
• Dấu ấn HCOIN ROYAL SEAL
• Chữ ký Chủ Thể henryle được khắc nổi
• HQR trung tâm đại diện điểm hội tụ – lan tỏa – dẫn đạo

Đặc biệt, mặt sau áp dụng Xoáy Song Tâm (X3)
→ tượng trưng cho Nội Lực – Ngoại Lực – Hòa Nhất Thành Đạo.



Phát Biểu Từ Chủ Tịch Hệ Sinh Thái

“Chúng ta không xây dựng một tổ chức để hơn ai, mà xây dựng một cộng đồng để tất cả cùng tốt hơn. Mỗi người tốt hơn → Cộng đồng thịnh vượng hơn.”



Định Hướng Sắp Tới

Hệ Sinh Thái Hbanks – Hcoin tiếp tục:
• Xây dựng mạng lưới kết nối nhân văn
• Mở rộng các chương trình phúc lợi cộng đồng
• Phát triển nền tảng năng lực và tri thức cho từng thành viên
• Kiến tạo môi trường hợp tác, công bằng, tôn trọng và bền vững



Kết Luận

Sự kiện trao Thẻ Hoàng Đế không chỉ vinh danh Chủ Thể henryle – Lê Đình Hải, mà còn đánh dấu bước chuyển thức mới của cộng đồng:
Từ kết nối → Tới kiến tạo → Tới lan tỏa giá trị.

Hệ Sinh Thái trân trọng gửi lời:
• Chúc mừng
• Tri ân
• Tự hào
đến Chủ Tịch cùng toàn thể cộng đồng đồng hành.
Đọc ít hơn
HNI 26/10 THÔNG CÁO BÁO CHÍ LỄ CÔNG BỐ THẺ HOÀNG ĐẾ – HỆ SINH THÁI HBANKS – HCOIN VINH DANH CHỦ TỊCH HỆ SINH THÁI HENRYLE – LÊ ĐÌNH HẢI Hôm nay, Hệ Sinh Thái Hbanks – Hcoin trân trọng công bố Lễ Ra Mắt Thẻ Chủ Thể Hoàng Đế (Imperial Card), biểu tượng cao nhất trong hệ thống nhận diện thành viên, được trao tặng cho Chủ tịch Hệ Sinh Thái henryle – Lê Đình Hải, người đặt nền móng, định hướng và dẫn dắt cộng đồng phát triển trên giá trị Trí tuệ – Tình thương – Kết nối – Thịnh vượng bền vững. ⸻ 🎖 Ý Nghĩa Của Thẻ Hoàng Đế Thẻ Hoàng Đế là cấp độ cao nhất trong hệ thống thẻ đa năng Hbanks, mang giá trị: • Xác thực Chủ Thể trung tâm của hệ sinh thái • Biểu tượng tầm nhìn chiến lược và vai trò dẫn dắt • Dấu ấn lịch sử của hành trình xây dựng cộng đồng • Tinh thần phụng sự và kiến tạo giá trị bền vững Khác với thẻ tài chính hay công cụ thanh toán, Thẻ Hoàng Đế là thẻ danh dự – thẻ nhận diện – thẻ văn hóa – thẻ biểu tượng. ⸻ Thiết Kế Thẻ Hoàng Đế – Phiên Bản Đặc Biệt Thẻ được chế tác theo phong cách Hoàng Kim Mặt Trời, với: • Nền kim cương đa tầng tán quang • Viền ánh sáng năng lượng hoàng gia • Dấu ấn HCOIN ROYAL SEAL • Chữ ký Chủ Thể henryle được khắc nổi • HQR trung tâm đại diện điểm hội tụ – lan tỏa – dẫn đạo Đặc biệt, mặt sau áp dụng Xoáy Song Tâm (X3) → tượng trưng cho Nội Lực – Ngoại Lực – Hòa Nhất Thành Đạo. ⸻ Phát Biểu Từ Chủ Tịch Hệ Sinh Thái “Chúng ta không xây dựng một tổ chức để hơn ai, mà xây dựng một cộng đồng để tất cả cùng tốt hơn. Mỗi người tốt hơn → Cộng đồng thịnh vượng hơn.” ⸻ Định Hướng Sắp Tới Hệ Sinh Thái Hbanks – Hcoin tiếp tục: • Xây dựng mạng lưới kết nối nhân văn • Mở rộng các chương trình phúc lợi cộng đồng • Phát triển nền tảng năng lực và tri thức cho từng thành viên • Kiến tạo môi trường hợp tác, công bằng, tôn trọng và bền vững ⸻ Kết Luận Sự kiện trao Thẻ Hoàng Đế không chỉ vinh danh Chủ Thể henryle – Lê Đình Hải, mà còn đánh dấu bước chuyển thức mới của cộng đồng: Từ kết nối → Tới kiến tạo → Tới lan tỏa giá trị. Hệ Sinh Thái trân trọng gửi lời: • Chúc mừng • Tri ân • Tự hào đến Chủ Tịch cùng toàn thể cộng đồng đồng hành. Đọc ít hơn
Like
Love
2
0 Comments 0 Shares
Recent Updates
  • HNI 27/10:
    BÀI THƠ CHƯƠNG 15: CHÍNH TRỊ NGHỊCH ĐẠO – DẤU HIỆU SUY VONG CỦA ĐẾ CHẾ
    Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính trị thuận Đạo – dân an nước thịnh,
    Nghịch Đạo sinh loạn – nghiệp đế vong tàn.
    Trời có luật Trời, Đạo có quy hoàn,
    Ai cưỡng nghịch Đạo, ắt chuốc tai ương.
    Khi quyền lực rời xa lẽ thiện,
    Búa công lý hóa lưỡi gươm oan.
    Quan tham ngồi ngất ngai vàng,
    Mưu riêng che nghĩa, giả đàng chính tâm.
    Lòng dân tan, vận nước chìm,
    Đế vương mất gốc, triều đình lung lay.
    Thiên mệnh chẳng ở nơi tay,
    Mà trong dân khí – mạch dài nghìn năm.
    Ngai vàng dựng giữa phù vân,
    Nước như lửa ngầm, sớm tàn muộn thôi.
    Người trên càng cố nắm ngôi,
    Trời càng khiến cảnh rối bời tang thương.
    Khi chính trị biến thành công cụ,
    Đạo nghĩa bị bán giữa chợ đời.
    Lời vua hóa rỗng tiếng chơi,
    Dân cười trong lệ, lệ rơi trong cười.
    Chính trị nghịch Đạo – dân rời, lòng tán,
    Tham quyền sinh họa, dục vọng sinh tai.
    Trời nhìn xuống, gió cuốn bay,
    Công danh một kiếp hóa mây giữa trời.
    Chính trị thuận Đạo, nhân hòa vững,
    Dân cùng trị nước – đạo cùng sinh.
    Còn nghịch Đạo, dối lòng dân,
    Thì cơ đồ rã, chẳng cần binh đao.
    Khi vua trị nước bằng sợ hãi,
    Là lúc Đạo rời, Trời quay lưng.
    Một lời gian dối – mất nghìn năm chứng,
    Một kẻ tham quyền – đốt cả thiên đường.
    Triều đại suy vong không vì địch,
    Mà vì trong chính trị nghịch tâm.
    Khi kẻ trị quên Đạo nhân,
    Là khi đế nghiệp hóa thân tro tàn.
    Đạo không giữ – Trời không còn giữ,
    Dân không tin – nước chẳng còn dân.
    Khi quyền không gắn với ân,
    Thì vương triều ấy chỉ còn trong mộng.
    Kẻ hiểu Đạo – trị bằng nhân nghĩa,
    Kẻ nghịch Đạo – tự diệt cơ đồ.
    Ngai vàng chẳng giữ được lâu,
    Nếu quên dân gốc, quên câu Trời dạy:
    “Dân là nước – vua như thuyền nổi,
    Nước thuận thì thuyền nổi vững vàng.
    Nước dậy sóng, thuyền tan hoang,
    Chính trị nghịch Đạo – Trời toan đổi người.”
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: BÀI THƠ CHƯƠNG 15: CHÍNH TRỊ NGHỊCH ĐẠO – DẤU HIỆU SUY VONG CỦA ĐẾ CHẾ Henry Lê – Lê Đình Hải Chính trị thuận Đạo – dân an nước thịnh, Nghịch Đạo sinh loạn – nghiệp đế vong tàn. Trời có luật Trời, Đạo có quy hoàn, Ai cưỡng nghịch Đạo, ắt chuốc tai ương. Khi quyền lực rời xa lẽ thiện, Búa công lý hóa lưỡi gươm oan. Quan tham ngồi ngất ngai vàng, Mưu riêng che nghĩa, giả đàng chính tâm. Lòng dân tan, vận nước chìm, Đế vương mất gốc, triều đình lung lay. Thiên mệnh chẳng ở nơi tay, Mà trong dân khí – mạch dài nghìn năm. Ngai vàng dựng giữa phù vân, Nước như lửa ngầm, sớm tàn muộn thôi. Người trên càng cố nắm ngôi, Trời càng khiến cảnh rối bời tang thương. Khi chính trị biến thành công cụ, Đạo nghĩa bị bán giữa chợ đời. Lời vua hóa rỗng tiếng chơi, Dân cười trong lệ, lệ rơi trong cười. Chính trị nghịch Đạo – dân rời, lòng tán, Tham quyền sinh họa, dục vọng sinh tai. Trời nhìn xuống, gió cuốn bay, Công danh một kiếp hóa mây giữa trời. Chính trị thuận Đạo, nhân hòa vững, Dân cùng trị nước – đạo cùng sinh. Còn nghịch Đạo, dối lòng dân, Thì cơ đồ rã, chẳng cần binh đao. Khi vua trị nước bằng sợ hãi, Là lúc Đạo rời, Trời quay lưng. Một lời gian dối – mất nghìn năm chứng, Một kẻ tham quyền – đốt cả thiên đường. Triều đại suy vong không vì địch, Mà vì trong chính trị nghịch tâm. Khi kẻ trị quên Đạo nhân, Là khi đế nghiệp hóa thân tro tàn. Đạo không giữ – Trời không còn giữ, Dân không tin – nước chẳng còn dân. Khi quyền không gắn với ân, Thì vương triều ấy chỉ còn trong mộng. Kẻ hiểu Đạo – trị bằng nhân nghĩa, Kẻ nghịch Đạo – tự diệt cơ đồ. Ngai vàng chẳng giữ được lâu, Nếu quên dân gốc, quên câu Trời dạy: “Dân là nước – vua như thuyền nổi, Nước thuận thì thuyền nổi vững vàng. Nước dậy sóng, thuyền tan hoang, Chính trị nghịch Đạo – Trời toan đổi người.” Đọc ít hơn
    Like
    Love
    2
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10: Bài thơ Chương 14: Vai trò của trí dân, lực dân, tài dân
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Trí dân sáng – nước bừng khai hóa,
    Lực dân mạnh – đất vững cơ đồ.
    Tài dân nở – trời ban vận hội,
    Ba nguồn hợp lại – quốc gia cơm no.
    Không dân trí, vua dù thánh cũng mù,
    Không dân lực, nước giàu mà yếu.
    Không dân tài, đạo trị khó lâu,
    Bởi nhân tâm là ngọc quý diệu.
    Trí dân là ngọn đèn soi bóng,
    Giúp vua biết sáng, quan biết minh.
    Lực dân là núi cao sông rộng,
    Giữ biên cương vững giữa thịnh bình.
    Tài dân là kho báu vô tận,
    Ẩn trong người thợ, kẻ nông phu.
    Trong tiếng hát, trong tay cần mẫn,
    Trong giọt mồ hôi chảy giữa sương thu.
    Khi dân có trí – luật hiền minh,
    Khi dân có lực – đời an định.
    Khi dân có tài – nước vươn xa,
    Không cần phép, Đạo tự sinh hình.
    Triều đại nào xem dân là cội,
    Sẽ thịnh muôn đời chẳng phôi pha.
    Triều đại nào quên dân trí tuệ,
    Sẽ tàn như lá cuối mùa hoa.
    Trí dân mở thì nước mở,
    Trí dân bịt thì nước mù.
    Lực dân dâng thì non sông nở,
    Lực dân suy thì vận số lu mờ.
    Tài dân chẳng ở cung vàng,
    Mà trong đồng ruộng, trong làng nhỏ bé.
    Biết gom từng tia sáng nhỏ,
    Thì quốc gia rạng tựa mặt trời kia.
    Dân là thầy của mọi triều đại,
    Là linh hồn của mọi văn minh.
    Không có dân, vua chỉ là tượng,
    Không có dân, nước hóa hư danh.
    Muốn hưng thịnh – hãy khơi dân trí,
    Muốn vững bền – hãy dưỡng dân tâm.
    Muốn trường tồn – hãy tin dân lực,
    Bởi dân là Trời, là Đạo, là Nguồn.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ Chương 14: Vai trò của trí dân, lực dân, tài dân (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Trí dân sáng – nước bừng khai hóa, Lực dân mạnh – đất vững cơ đồ. Tài dân nở – trời ban vận hội, Ba nguồn hợp lại – quốc gia cơm no. Không dân trí, vua dù thánh cũng mù, Không dân lực, nước giàu mà yếu. Không dân tài, đạo trị khó lâu, Bởi nhân tâm là ngọc quý diệu. Trí dân là ngọn đèn soi bóng, Giúp vua biết sáng, quan biết minh. Lực dân là núi cao sông rộng, Giữ biên cương vững giữa thịnh bình. Tài dân là kho báu vô tận, Ẩn trong người thợ, kẻ nông phu. Trong tiếng hát, trong tay cần mẫn, Trong giọt mồ hôi chảy giữa sương thu. Khi dân có trí – luật hiền minh, Khi dân có lực – đời an định. Khi dân có tài – nước vươn xa, Không cần phép, Đạo tự sinh hình. Triều đại nào xem dân là cội, Sẽ thịnh muôn đời chẳng phôi pha. Triều đại nào quên dân trí tuệ, Sẽ tàn như lá cuối mùa hoa. Trí dân mở thì nước mở, Trí dân bịt thì nước mù. Lực dân dâng thì non sông nở, Lực dân suy thì vận số lu mờ. Tài dân chẳng ở cung vàng, Mà trong đồng ruộng, trong làng nhỏ bé. Biết gom từng tia sáng nhỏ, Thì quốc gia rạng tựa mặt trời kia. Dân là thầy của mọi triều đại, Là linh hồn của mọi văn minh. Không có dân, vua chỉ là tượng, Không có dân, nước hóa hư danh. Muốn hưng thịnh – hãy khơi dân trí, Muốn vững bền – hãy dưỡng dân tâm. Muốn trường tồn – hãy tin dân lực, Bởi dân là Trời, là Đạo, là Nguồn. Đọc ít hơn
    Like
    Love
    2
    1 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10: Bài thơ Chương 13: Khi lòng dân ly tán – triều đại lung lay
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi lòng dân chẳng còn chung một nhịp,
    Ngai vàng kia hóa chiếc ghế trống trơn.
    Cung điện sáng mà tâm người đã tối,
    Đế nghiệp xưa – chỉ còn trong giấc mơ.
    Khi dân oán, đất trời cũng nặng,
    Cây chẳng xanh, sông cạn đá khô.
    Gió chẳng hát, chim không đậu,
    Mưa rơi như lệ của hư vô.
    Lòng dân tán, quyền đâu mà giữ?
    Trị dân không nghĩa – Trời thu quyền ngay.
    Thế nước lớn mà tâm dân rạn,
    Thì triều đại chẳng thể còn dài.
    Không ai lật đổ một đế vương,
    Ngoài chính dân mình quay lưng thầm lặng.
    Không ai phá tan một triều đại,
    Ngoài chính sự bất công đã chồng chất nặng.
    Ngai vàng lung lay chẳng vì đao kiếm,
    Mà vì tiếng thở dài giữa dân gian.
    Một giọt lệ rơi nơi chợ vắng,
    Cũng nứt tan ngọc tỷ trong cung vàng.
    Khi quan liêu xa rời dân khổ,
    Khi quyền quý quên nghĩa nhân tâm,
    Thì Đạo Trời tự xoay bánh số,
    Khiến cơ đồ hóa bụi âm thầm.
    Không có dân – vua chỉ là kẻ lữ,
    Lang thang giữa cõi vô thường quyền danh.
    Không có dân – nước chỉ là địa ngục,
    Dù tường son, dù cẩm tú lung linh.
    Một khi dân chẳng còn tin,
    Thì lệnh vua hóa gió, lời triều hóa khói.
    Một khi dân chẳng còn nhìn,
    Thì ngai ngọc cũng chỉ là cát bụi trôi.
    Bởi dân là gốc, triều là ngọn,
    Cội không bền – lá úa rụng thôi.
    Người khôn trị nước bằng lòng thuận,
    Kẻ ngu giữ nước bằng bạo uy.
    Đến khi lòng dân đã lìa,
    Thì muôn đạo quân cũng thành mây loãng.
    Trời không cần giáng sấm,
    Chỉ cần dân quay lưng – triều đại tan tành.
    Hãy nhớ: lòng dân là Thần,
    Không cần kiếm cũng phân định chính tà.
    Ai thuận dân – Trời nâng giữ,
    Ai nghịch dân – Trời tự phế truất ra.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ Chương 13: Khi lòng dân ly tán – triều đại lung lay (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi lòng dân chẳng còn chung một nhịp, Ngai vàng kia hóa chiếc ghế trống trơn. Cung điện sáng mà tâm người đã tối, Đế nghiệp xưa – chỉ còn trong giấc mơ. Khi dân oán, đất trời cũng nặng, Cây chẳng xanh, sông cạn đá khô. Gió chẳng hát, chim không đậu, Mưa rơi như lệ của hư vô. Lòng dân tán, quyền đâu mà giữ? Trị dân không nghĩa – Trời thu quyền ngay. Thế nước lớn mà tâm dân rạn, Thì triều đại chẳng thể còn dài. Không ai lật đổ một đế vương, Ngoài chính dân mình quay lưng thầm lặng. Không ai phá tan một triều đại, Ngoài chính sự bất công đã chồng chất nặng. Ngai vàng lung lay chẳng vì đao kiếm, Mà vì tiếng thở dài giữa dân gian. Một giọt lệ rơi nơi chợ vắng, Cũng nứt tan ngọc tỷ trong cung vàng. Khi quan liêu xa rời dân khổ, Khi quyền quý quên nghĩa nhân tâm, Thì Đạo Trời tự xoay bánh số, Khiến cơ đồ hóa bụi âm thầm. Không có dân – vua chỉ là kẻ lữ, Lang thang giữa cõi vô thường quyền danh. Không có dân – nước chỉ là địa ngục, Dù tường son, dù cẩm tú lung linh. Một khi dân chẳng còn tin, Thì lệnh vua hóa gió, lời triều hóa khói. Một khi dân chẳng còn nhìn, Thì ngai ngọc cũng chỉ là cát bụi trôi. Bởi dân là gốc, triều là ngọn, Cội không bền – lá úa rụng thôi. Người khôn trị nước bằng lòng thuận, Kẻ ngu giữ nước bằng bạo uy. Đến khi lòng dân đã lìa, Thì muôn đạo quân cũng thành mây loãng. Trời không cần giáng sấm, Chỉ cần dân quay lưng – triều đại tan tành. Hãy nhớ: lòng dân là Thần, Không cần kiếm cũng phân định chính tà. Ai thuận dân – Trời nâng giữ, Ai nghịch dân – Trời tự phế truất ra. Đọc ít hơn
    Love
    Haha
    2
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10: Bài thơ Chương 12: Khi lòng dân thuận – thiên hạ thái bình
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi lòng dân thuận, trời xanh biếc,
    Mây ngừng bay, gió cũng dịu hiền.
    Đất mở nụ, sông reo khúc nhạc,
    Trẻ cười vang – tổ quốc bình yên.
    Một tấc lòng dân hơn ngàn đạo lệnh,
    Một niềm tin dân mạnh hơn vạn quân.
    Không cần gươm giáo, chỉ cần đồng thuận,
    Là thiên hạ tự hóa mùa xuân.
    Nước chẳng thể yên khi lòng người loạn,
    Triều đại chẳng bền nếu dân khổ đau.
    Ngai vàng dựng bởi vạn lòng tin tưởng,
    Chứ không bởi máu đổ trên đầu.
    Khi dân thương dân, vua thương dân,
    Cõi nhân gian hóa cõi thần tiên.
    Không cần trị, dân cũng thuận,
    Không cần lệnh, dân cũng liền.
    Khi dân tin, mọi lời đều có đạo,
    Khi dân nghi, ngàn pháp chẳng sinh công.
    Dân là gốc – chính quyền là ngọn,
    Nước thịnh suy đều khởi từ lòng.
    Lòng dân thuận – trời ban phúc,
    Lòng dân nghịch – trời xoay vần.
    Thuận thiên, thuận đạo, thuận lòng nước,
    Thì quốc gia vĩnh cửu muôn xuân.
    Đừng xem dân như kẻ dưới,
    Hãy xem dân là mạch sống của đời.
    Mỗi người dân là một trời nhỏ,
    Góp thành nền vũ trụ rạng ngời.
    Khi dân cười – đất nở hoa,
    Khi dân khóc – trời cũng rơi lệ.
    Bởi dân là khí của sơn hà,
    Là linh hồn của mọi thế hệ.
    Muốn thiên hạ thái bình – hãy dưỡng lòng dân,
    Muốn quốc gia vững bền – hãy tin dân trước.
    Đạo trị nước không ở sách vở,
    Mà ở chữ “nhân” khắc trong từng bước.
    Khi lòng dân thuận – tự nhiên trời thuận,
    Không cần mưu, cũng hóa đại đồng.
    Bởi dân là Trời trong hình hài đất,
    Giữ cho nhân thế mãi trường tồn.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ Chương 12: Khi lòng dân thuận – thiên hạ thái bình (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi lòng dân thuận, trời xanh biếc, Mây ngừng bay, gió cũng dịu hiền. Đất mở nụ, sông reo khúc nhạc, Trẻ cười vang – tổ quốc bình yên. Một tấc lòng dân hơn ngàn đạo lệnh, Một niềm tin dân mạnh hơn vạn quân. Không cần gươm giáo, chỉ cần đồng thuận, Là thiên hạ tự hóa mùa xuân. Nước chẳng thể yên khi lòng người loạn, Triều đại chẳng bền nếu dân khổ đau. Ngai vàng dựng bởi vạn lòng tin tưởng, Chứ không bởi máu đổ trên đầu. Khi dân thương dân, vua thương dân, Cõi nhân gian hóa cõi thần tiên. Không cần trị, dân cũng thuận, Không cần lệnh, dân cũng liền. Khi dân tin, mọi lời đều có đạo, Khi dân nghi, ngàn pháp chẳng sinh công. Dân là gốc – chính quyền là ngọn, Nước thịnh suy đều khởi từ lòng. Lòng dân thuận – trời ban phúc, Lòng dân nghịch – trời xoay vần. Thuận thiên, thuận đạo, thuận lòng nước, Thì quốc gia vĩnh cửu muôn xuân. Đừng xem dân như kẻ dưới, Hãy xem dân là mạch sống của đời. Mỗi người dân là một trời nhỏ, Góp thành nền vũ trụ rạng ngời. Khi dân cười – đất nở hoa, Khi dân khóc – trời cũng rơi lệ. Bởi dân là khí của sơn hà, Là linh hồn của mọi thế hệ. Muốn thiên hạ thái bình – hãy dưỡng lòng dân, Muốn quốc gia vững bền – hãy tin dân trước. Đạo trị nước không ở sách vở, Mà ở chữ “nhân” khắc trong từng bước. Khi lòng dân thuận – tự nhiên trời thuận, Không cần mưu, cũng hóa đại đồng. Bởi dân là Trời trong hình hài đất, Giữ cho nhân thế mãi trường tồn. Đọc ít hơn
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10:Bài thơ Chương 11: “Dân vi bản” – dân là gốc của chính trị
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Dân là đất, nước là cây,
    Không có gốc, cội nào xanh biếc mãi.
    Dân là biển, quyền là mây,
    Mây bay khỏi biển – chỉ còn trống trải.
    Chính trị suy nếu quên dân,
    Tựa nhà không móng, sập trong một sớm.
    Ngai vàng dựng bởi lòng nhân,
    Không bởi máu, súng hay quyền cưỡng ép.
    Dân là Trời trong thân phận người,
    Là gương soi nghiệp của kẻ lãnh đạo.
    Trời không tiếng, chỉ lặng cười,
    Khi kẻ cầm quyền quên đi đạo gốc.
    Một lời dân, nặng hơn vạn lệnh,
    Một giọt nước, có thể dâng thành bão tố.
    Nếu lòng dân thuận, nước vững như đồng,
    Nếu lòng dân loạn, ngai vàng cũng đổ.
    Chính trị thật là phụng dân sinh,
    Không phải giữ ngai, hay tô danh hão.
    Kẻ trị dân mà quên nghĩa tình,
    Sẽ bị lịch sử phán như giông bão.
    Dân không chỉ để nghe – để phục,
    Dân là chủ thể của mọi mệnh trời.
    Khi dân đứng, núi sông sáng phục,
    Khi dân gục, triều đại tả tơi.
    “Dân vi bản” – lời xưa còn vọng,
    Từ Hồng Đức, Thăng Long đến muôn đời sau.
    Không ai cao hơn dân tộc,
    Không ngai vàng nào hơn tấm lòng đau.
    Hãy lắng nghe tiếng thở của ruộng đồng,
    Tiếng trẻ thơ trong giấc mơ đói lạnh.
    Hãy cảm nhận nỗi khổ của từng người,
    Vì đó chính là nền móng chính danh.
    Dân là máu – chảy trong mọi quyền lực,
    Dân là hồn – giữ Đạo nước bền lâu.
    Một chính quyền quên đi dân tộc,
    Khác gì cây rụng lá trong sầu.
    Vì thế, chính trị không phải thống trị,
    Mà là nghệ thuật của tình thương.
    Một nhà lãnh đạo hiểu “dân vi bản”,
    Sẽ làm Trời cảm động – và đời nở hoa hương.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10:Bài thơ Chương 11: “Dân vi bản” – dân là gốc của chính trị (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Dân là đất, nước là cây, Không có gốc, cội nào xanh biếc mãi. Dân là biển, quyền là mây, Mây bay khỏi biển – chỉ còn trống trải. Chính trị suy nếu quên dân, Tựa nhà không móng, sập trong một sớm. Ngai vàng dựng bởi lòng nhân, Không bởi máu, súng hay quyền cưỡng ép. Dân là Trời trong thân phận người, Là gương soi nghiệp của kẻ lãnh đạo. Trời không tiếng, chỉ lặng cười, Khi kẻ cầm quyền quên đi đạo gốc. Một lời dân, nặng hơn vạn lệnh, Một giọt nước, có thể dâng thành bão tố. Nếu lòng dân thuận, nước vững như đồng, Nếu lòng dân loạn, ngai vàng cũng đổ. Chính trị thật là phụng dân sinh, Không phải giữ ngai, hay tô danh hão. Kẻ trị dân mà quên nghĩa tình, Sẽ bị lịch sử phán như giông bão. Dân không chỉ để nghe – để phục, Dân là chủ thể của mọi mệnh trời. Khi dân đứng, núi sông sáng phục, Khi dân gục, triều đại tả tơi. “Dân vi bản” – lời xưa còn vọng, Từ Hồng Đức, Thăng Long đến muôn đời sau. Không ai cao hơn dân tộc, Không ngai vàng nào hơn tấm lòng đau. Hãy lắng nghe tiếng thở của ruộng đồng, Tiếng trẻ thơ trong giấc mơ đói lạnh. Hãy cảm nhận nỗi khổ của từng người, Vì đó chính là nền móng chính danh. Dân là máu – chảy trong mọi quyền lực, Dân là hồn – giữ Đạo nước bền lâu. Một chính quyền quên đi dân tộc, Khác gì cây rụng lá trong sầu. Vì thế, chính trị không phải thống trị, Mà là nghệ thuật của tình thương. Một nhà lãnh đạo hiểu “dân vi bản”, Sẽ làm Trời cảm động – và đời nở hoa hương. Đọc ít hơn
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 9:
    BÀI THƠ: NHÀ LÃNH ĐẠO VÀ NĂNG LƯỢNG ĐẠO TRỜI
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Nhà lãnh đạo – không chỉ là người cầm quyền,
    Mà là kẻ nắm mạch Đạo của Trời trong lòng dân.
    Không ra lệnh, mà khiến muôn người tự thuận,
    Không cưỡng cầu, mà vạn vật tự hòa âm.
    Đạo Trời chẳng nói, nhưng năng lượng vẫn vận hành,
    Người lãnh đạo chân chính là kẻ cảm nhận được.
    Thấy Trời qua từng hơi thở nhân sinh,
    Biết thời – mà chẳng cần hỏi chiêm tinh hay sao hạn.
    Khi tâm người trị nước hòa cùng nhịp Đạo,
    Thì mọi mệnh lệnh đều tự nhiên mà đúng.
    Không cần sức mạnh, không cần uy nghi,
    Chỉ một ánh mắt cũng đủ lay động ngàn dân.
    Năng lượng Đạo Trời không ở xa xăm,
    Nó ở trong lòng người biết giữ chính niệm.
    Nhà lãnh đạo nếu còn sợ, còn tham, còn giận,
    Thì luồng năng lượng ấy sẽ đứt giữa đường đi.
    Trời chỉ trao quyền cho người biết khiêm cung,
    Không tranh danh, chẳng chấp thắng hay bại.
    Bởi quyền lực là gánh nặng của lòng tin nhân loại,
    Chứ chẳng phải vinh quang để tự xưng mình.
    Khi nhà lãnh đạo biết tĩnh trong bão tố,
    Thì dân cũng yên dù gió giật mưa giông.
    Bởi năng lượng Đạo Trời lan tỏa không bằng tiếng nói,
    Mà bằng khí chất thanh an từ trong cốt tủy người.
    Không phải mọi lệnh truyền đều có sức,
    Mà chỉ lời nào mang tần số của Chân.
    Khi nói ra từ lòng vô ngã, không vì bản thân,
    Thì tiếng ấy hóa Thiên lệnh, khiến muôn lòng cảm phục.
    Bậc dẫn đạo là người soi sáng chứ không dẫn dắt,
    Không đứng trước – cũng chẳng ở phía sau.
    Chỉ như Trời – ở khắp mà chẳng hiện hình,
    Nhưng ai cũng thấy, cũng cảm, cũng theo.
    Khi người lãnh đạo sống đúng Đạo Trời,
    Thì mọi quyết định đều mang hơi thở an nhiên.
    Không còn trị dân – mà cùng dân kiến tạo,
    Không còn cai quản – mà cùng hòa vận sinh.
    Kết:
    Nhà lãnh đạo là trung tâm của trường năng lượng,
    Nếu tâm lệch – vạn dân dao động bất an.
    Khi thuận Đạo, Trời gia phúc, dân đồng lòng,
    Một niệm sáng – chiếu rạng cả giang san.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ chương 9: BÀI THƠ: NHÀ LÃNH ĐẠO VÀ NĂNG LƯỢNG ĐẠO TRỜI Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Nhà lãnh đạo – không chỉ là người cầm quyền, Mà là kẻ nắm mạch Đạo của Trời trong lòng dân. Không ra lệnh, mà khiến muôn người tự thuận, Không cưỡng cầu, mà vạn vật tự hòa âm. Đạo Trời chẳng nói, nhưng năng lượng vẫn vận hành, Người lãnh đạo chân chính là kẻ cảm nhận được. Thấy Trời qua từng hơi thở nhân sinh, Biết thời – mà chẳng cần hỏi chiêm tinh hay sao hạn. Khi tâm người trị nước hòa cùng nhịp Đạo, Thì mọi mệnh lệnh đều tự nhiên mà đúng. Không cần sức mạnh, không cần uy nghi, Chỉ một ánh mắt cũng đủ lay động ngàn dân. Năng lượng Đạo Trời không ở xa xăm, Nó ở trong lòng người biết giữ chính niệm. Nhà lãnh đạo nếu còn sợ, còn tham, còn giận, Thì luồng năng lượng ấy sẽ đứt giữa đường đi. Trời chỉ trao quyền cho người biết khiêm cung, Không tranh danh, chẳng chấp thắng hay bại. Bởi quyền lực là gánh nặng của lòng tin nhân loại, Chứ chẳng phải vinh quang để tự xưng mình. Khi nhà lãnh đạo biết tĩnh trong bão tố, Thì dân cũng yên dù gió giật mưa giông. Bởi năng lượng Đạo Trời lan tỏa không bằng tiếng nói, Mà bằng khí chất thanh an từ trong cốt tủy người. Không phải mọi lệnh truyền đều có sức, Mà chỉ lời nào mang tần số của Chân. Khi nói ra từ lòng vô ngã, không vì bản thân, Thì tiếng ấy hóa Thiên lệnh, khiến muôn lòng cảm phục. Bậc dẫn đạo là người soi sáng chứ không dẫn dắt, Không đứng trước – cũng chẳng ở phía sau. Chỉ như Trời – ở khắp mà chẳng hiện hình, Nhưng ai cũng thấy, cũng cảm, cũng theo. Khi người lãnh đạo sống đúng Đạo Trời, Thì mọi quyết định đều mang hơi thở an nhiên. Không còn trị dân – mà cùng dân kiến tạo, Không còn cai quản – mà cùng hòa vận sinh. Kết: Nhà lãnh đạo là trung tâm của trường năng lượng, Nếu tâm lệch – vạn dân dao động bất an. Khi thuận Đạo, Trời gia phúc, dân đồng lòng, Một niệm sáng – chiếu rạng cả giang san. Đọc ít hơn
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 8:
    BÀI THƠ: CHÍNH TRỊ NHƯ NGHỆ THUẬT ĐIỀU HÒA NĂNG LƯỢNG CỘNG ĐỒNG
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính trị chẳng phải trò quyền biến đoạt danh,
    Mà là nghệ thuật điều hòa lòng người, năng lượng.
    Không gươm giáo, chẳng mưu sâu kế hiểm,
    Chỉ một nhịp tâm an – cũng hóa bình thiên hạ.
    Nơi cộng đồng, năng lượng xoay vòng như mạch,
    Lúc thịnh, lúc suy – như thuỷ triều vơi đầy.
    Bậc trị quốc không cưỡng, không vội ép,
    Mà thuận dòng – đưa nước chảy về sông.
    Chính trị, nếu chỉ thấy quyền trong danh lợi,
    Sẽ biến dân thành công cụ cho một người.
    Nhưng khi hiểu quyền là luồng năng lượng sống,
    Thì lãnh đạo là người truyền dẫn yêu thương.
    Người lãnh đạo như người giữ nhịp đàn,
    Biết nâng cao khi lòng dân đang trỗi.
    Biết hạ xuống khi hận thù vừa dậy sóng,
    Để âm vang cộng đồng lại trở nên hài hòa.
    Mỗi tiếng nói, mỗi hành động là rung động,
    Chính trị là nghệ thuật cảm nhận tần số dân.
    Người trị thế không nghe bằng tai, bằng mắt,
    Mà nghe bằng lòng – thấy bằng ánh sáng trong.
    Có khi cần nói, nhưng nhiều khi cần lặng,
    Vì năng lượng dân làn sóng chẳng cần lời.
    Một quyết định sai có thể lay trời đất,
    Một im lặng đúng – giữ vững cả non sông.
    Năng lượng cộng đồng – ấy là ý Trời trong dân,
    Bậc lãnh đạo chỉ là người dẫn luồng khí ấy.
    Không chiếm, không nắm, không khống chế,
    Mà khai thông – để Đạo tự vận hành.
    Chính trị là giữ cân bằng giữa âm và dương,
    Giữa hành động và tĩnh tâm trong trí.
    Khi dân nóng, cần người biết làm mát,
    Khi dân lạnh, cần người nhóm lửa nhân tâm.
    Không ai trị được dân bằng ép buộc,
    Chỉ người hòa được dân bằng năng lượng yêu thương.
    Quyền lực chân chính là quyền của sự lắng nghe,
    Và chính trị viên là người điều khí của lòng người.
    Kết:
    Chính trị là nghệ thuật – không phải cuộc tranh quyền,
    Là điều hòa nguồn năng lượng chung nhân loại.
    Khi mỗi trái tim cùng rung trong tần số Đạo,
    Thì quốc gia yên – mà chẳng cần tới gươm đao.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ chương 8: BÀI THƠ: CHÍNH TRỊ NHƯ NGHỆ THUẬT ĐIỀU HÒA NĂNG LƯỢNG CỘNG ĐỒNG Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Chính trị chẳng phải trò quyền biến đoạt danh, Mà là nghệ thuật điều hòa lòng người, năng lượng. Không gươm giáo, chẳng mưu sâu kế hiểm, Chỉ một nhịp tâm an – cũng hóa bình thiên hạ. Nơi cộng đồng, năng lượng xoay vòng như mạch, Lúc thịnh, lúc suy – như thuỷ triều vơi đầy. Bậc trị quốc không cưỡng, không vội ép, Mà thuận dòng – đưa nước chảy về sông. Chính trị, nếu chỉ thấy quyền trong danh lợi, Sẽ biến dân thành công cụ cho một người. Nhưng khi hiểu quyền là luồng năng lượng sống, Thì lãnh đạo là người truyền dẫn yêu thương. Người lãnh đạo như người giữ nhịp đàn, Biết nâng cao khi lòng dân đang trỗi. Biết hạ xuống khi hận thù vừa dậy sóng, Để âm vang cộng đồng lại trở nên hài hòa. Mỗi tiếng nói, mỗi hành động là rung động, Chính trị là nghệ thuật cảm nhận tần số dân. Người trị thế không nghe bằng tai, bằng mắt, Mà nghe bằng lòng – thấy bằng ánh sáng trong. Có khi cần nói, nhưng nhiều khi cần lặng, Vì năng lượng dân làn sóng chẳng cần lời. Một quyết định sai có thể lay trời đất, Một im lặng đúng – giữ vững cả non sông. Năng lượng cộng đồng – ấy là ý Trời trong dân, Bậc lãnh đạo chỉ là người dẫn luồng khí ấy. Không chiếm, không nắm, không khống chế, Mà khai thông – để Đạo tự vận hành. Chính trị là giữ cân bằng giữa âm và dương, Giữa hành động và tĩnh tâm trong trí. Khi dân nóng, cần người biết làm mát, Khi dân lạnh, cần người nhóm lửa nhân tâm. Không ai trị được dân bằng ép buộc, Chỉ người hòa được dân bằng năng lượng yêu thương. Quyền lực chân chính là quyền của sự lắng nghe, Và chính trị viên là người điều khí của lòng người. Kết: Chính trị là nghệ thuật – không phải cuộc tranh quyền, Là điều hòa nguồn năng lượng chung nhân loại. Khi mỗi trái tim cùng rung trong tần số Đạo, Thì quốc gia yên – mà chẳng cần tới gươm đao. Đọc ít hơn
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 7:
    BÀI THƠ: THIÊN Ý VÀ LÒNG DÂN – HAI CHIỀU THỐNG NHẤT TRONG CHÍNH TRỊ
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Trời chẳng nói, nhưng lòng dân là tiếng,
    Nghe dân kêu, ấy chính tiếng của Trời.
    Thiên ý chẳng xa, chẳng ẩn nơi mây trắng,
    Mà hiện trong từng nhịp thở của nhân gian.
    Khi dân an, Trời cũng mỉm cười hiền hậu,
    Khi dân khổ, Trời nghiêng lệ xuống nhân gian.
    Người cầm quyền nếu trái lòng dân,
    Tức nghịch Trời – muôn loài đều phản lại.
    Thiên ý và lòng dân, hai mà một,
    Như Trời cùng Đất hòa hợp thành sinh khí.
    Dân thuận thì nước yên, đạo sáng,
    Dân oán thì Trời cũng chẳng bênh ai.
    Bậc minh quân biết lắng nghe điều nhỏ,
    Một tiếng thở than cũng xem như mệnh Trời.
    Không dùng gươm, chẳng cần mưu, chẳng cần trị,
    Chỉ thuận lòng dân – vạn sự hóa an nhiên.
    Kẻ ngu quyền tưởng Trời xa vời vợi,
    Không hay Trời ẩn ngay trong mắt dân.
    Một ánh nhìn, một giọt lệ, một niềm tin,
    Là thước đo cho đạo lý của quyền lực.
    Khi Trời ban mệnh không phải ban ngai,
    Mà ban trọng trách gìn giữ lòng nhân ái.
    Khi dân trao niềm tin không phải vì sợ,
    Mà vì thấy đạo trong tâm người lãnh đạo.
    Thiên ý chẳng nằm trong lễ nghi cung kính,
    Mà trong cách quan nhìn dân bằng đôi mắt thật.
    Một lời chân hơn vạn điều sắc dụ,
    Một nghĩa tình hơn trăm đạo chiếu ban.
    Khi Trời muốn chuyển, dân trước khẽ động,
    Như sóng ngầm báo hiệu cơn phong ba.
    Bậc hiểu Đạo biết nhìn trong tĩnh lặng,
    Để sửa mình, chứ chẳng trách Trời cao.
    Ngôi vua giữ được không nhờ gươm sắc,
    Mà nhờ lòng dân kết lại thành tường đồng.
    Khi Trời và dân cùng hướng một phương,
    Thì nước vững – dù muôn cơn giông tố.
    Kết:
    Thiên ý và lòng dân – hai chiều cùng một Đạo,
    Trời gửi lòng dân để soi sáng đường đời.
    Kẻ biết thuận, chính trị hóa nhân hòa,
    Kẻ nghịch Trời, nghịch dân – tự diệt chính mình.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ chương 7: BÀI THƠ: THIÊN Ý VÀ LÒNG DÂN – HAI CHIỀU THỐNG NHẤT TRONG CHÍNH TRỊ Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Trời chẳng nói, nhưng lòng dân là tiếng, Nghe dân kêu, ấy chính tiếng của Trời. Thiên ý chẳng xa, chẳng ẩn nơi mây trắng, Mà hiện trong từng nhịp thở của nhân gian. Khi dân an, Trời cũng mỉm cười hiền hậu, Khi dân khổ, Trời nghiêng lệ xuống nhân gian. Người cầm quyền nếu trái lòng dân, Tức nghịch Trời – muôn loài đều phản lại. Thiên ý và lòng dân, hai mà một, Như Trời cùng Đất hòa hợp thành sinh khí. Dân thuận thì nước yên, đạo sáng, Dân oán thì Trời cũng chẳng bênh ai. Bậc minh quân biết lắng nghe điều nhỏ, Một tiếng thở than cũng xem như mệnh Trời. Không dùng gươm, chẳng cần mưu, chẳng cần trị, Chỉ thuận lòng dân – vạn sự hóa an nhiên. Kẻ ngu quyền tưởng Trời xa vời vợi, Không hay Trời ẩn ngay trong mắt dân. Một ánh nhìn, một giọt lệ, một niềm tin, Là thước đo cho đạo lý của quyền lực. Khi Trời ban mệnh không phải ban ngai, Mà ban trọng trách gìn giữ lòng nhân ái. Khi dân trao niềm tin không phải vì sợ, Mà vì thấy đạo trong tâm người lãnh đạo. Thiên ý chẳng nằm trong lễ nghi cung kính, Mà trong cách quan nhìn dân bằng đôi mắt thật. Một lời chân hơn vạn điều sắc dụ, Một nghĩa tình hơn trăm đạo chiếu ban. Khi Trời muốn chuyển, dân trước khẽ động, Như sóng ngầm báo hiệu cơn phong ba. Bậc hiểu Đạo biết nhìn trong tĩnh lặng, Để sửa mình, chứ chẳng trách Trời cao. Ngôi vua giữ được không nhờ gươm sắc, Mà nhờ lòng dân kết lại thành tường đồng. Khi Trời và dân cùng hướng một phương, Thì nước vững – dù muôn cơn giông tố. Kết: Thiên ý và lòng dân – hai chiều cùng một Đạo, Trời gửi lòng dân để soi sáng đường đời. Kẻ biết thuận, chính trị hóa nhân hòa, Kẻ nghịch Trời, nghịch dân – tự diệt chính mình. Đọc ít hơn
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10:
    Bài thơ chương 3:
    Quyền Lực Và Trách Nhiệm – Hai Mặt Của Cùng Một Đạo
    Quyền lực là ngọn lửa, soi sáng hay thiêu rụi?
    Tùy bàn tay người giữ, là thánh nhân hay quỷ dữ?
    Một khi có quyền mà quên đi đạo,
    Thì chính mình sẽ bị thiêu trong ngọn lửa do mình nhóm lên.
    Trách nhiệm là bóng, luôn đi cùng ánh sáng,
    Quyền lực rực rỡ bao nhiêu, bóng ấy càng dài bấy nhiêu.
    Người chỉ thấy vinh quang mà quên nghĩa vụ,
    Thì Đạo đã rời đi, chỉ còn lại chiếc ngai rỗng không.
    Đạo Trời không cấm con người nắm quyền,
    Nhưng răn rằng: “Hãy biết vì ai mà cầm giữ.”
    Quyền sinh ra để phục vụ nhân dân,
    Trách nhiệm sinh ra để giữ lòng mình không lạc.
    Có quyền mà không gánh, quyền ấy vô nghĩa,
    Có gánh mà không quyền, trách ấy vô năng.
    Chỉ khi quyền và trách hòa làm một thể,
    Người lãnh đạo mới thật sự thuận theo Đạo Trời.
    Quyền là con dao hai lưỡi – sáng cho công lý,
    Nhưng chỉ một nghiêng lệch, sẽ rạch nát lòng dân.
    Trách nhiệm là sợi dây vô hình,
    Giữ cho quyền lực không rơi vào vực tối.
    Người cầm quyền biết sợ, mới giữ được thiên tâm,
    Kẻ cầm quyền ngạo mạn, sớm rời thiên vị.
    Trời chẳng phạt bằng sấm sét hay gươm đao,
    Mà phạt bằng sự cô độc của kẻ mất lòng dân.
    Trách nhiệm không là gánh nặng,
    Mà là thước đo của lương tâm khi có quyền.
    Người biết sợ chính mình, mới xứng đáng được tin,
    Người quên sợ Trời, sẽ mất tất cả.
    Khi quyền lực tìm đến để thử lòng người,
    Chính trách nhiệm là phép thử của linh hồn.
    Khi trách nhiệm dẫn đường cho quyền lực,
    Thì Đạo hiện ra – sáng như bình minh.
    Đạo không ở ngai vàng,
    Đạo ở trong từng hành động nhỏ.
    Khi người cầm quyền cúi đầu vì dân,
    Chính là lúc Trời nâng họ lên.
    Quyền lực và trách nhiệm – hai mặt của cùng một Đạo,
    Tách nhau ra, Đạo vỡ tan thành hỗn loạn.
    Hợp lại, Đạo trở nên tròn đầy như mặt trăng,
    Soi chiếu lòng người, và dẫn dắt nhân gian.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ chương 3: Quyền Lực Và Trách Nhiệm – Hai Mặt Của Cùng Một Đạo Quyền lực là ngọn lửa, soi sáng hay thiêu rụi? Tùy bàn tay người giữ, là thánh nhân hay quỷ dữ? Một khi có quyền mà quên đi đạo, Thì chính mình sẽ bị thiêu trong ngọn lửa do mình nhóm lên. Trách nhiệm là bóng, luôn đi cùng ánh sáng, Quyền lực rực rỡ bao nhiêu, bóng ấy càng dài bấy nhiêu. Người chỉ thấy vinh quang mà quên nghĩa vụ, Thì Đạo đã rời đi, chỉ còn lại chiếc ngai rỗng không. Đạo Trời không cấm con người nắm quyền, Nhưng răn rằng: “Hãy biết vì ai mà cầm giữ.” Quyền sinh ra để phục vụ nhân dân, Trách nhiệm sinh ra để giữ lòng mình không lạc. Có quyền mà không gánh, quyền ấy vô nghĩa, Có gánh mà không quyền, trách ấy vô năng. Chỉ khi quyền và trách hòa làm một thể, Người lãnh đạo mới thật sự thuận theo Đạo Trời. Quyền là con dao hai lưỡi – sáng cho công lý, Nhưng chỉ một nghiêng lệch, sẽ rạch nát lòng dân. Trách nhiệm là sợi dây vô hình, Giữ cho quyền lực không rơi vào vực tối. Người cầm quyền biết sợ, mới giữ được thiên tâm, Kẻ cầm quyền ngạo mạn, sớm rời thiên vị. Trời chẳng phạt bằng sấm sét hay gươm đao, Mà phạt bằng sự cô độc của kẻ mất lòng dân. Trách nhiệm không là gánh nặng, Mà là thước đo của lương tâm khi có quyền. Người biết sợ chính mình, mới xứng đáng được tin, Người quên sợ Trời, sẽ mất tất cả. Khi quyền lực tìm đến để thử lòng người, Chính trách nhiệm là phép thử của linh hồn. Khi trách nhiệm dẫn đường cho quyền lực, Thì Đạo hiện ra – sáng như bình minh. Đạo không ở ngai vàng, Đạo ở trong từng hành động nhỏ. Khi người cầm quyền cúi đầu vì dân, Chính là lúc Trời nâng họ lên. Quyền lực và trách nhiệm – hai mặt của cùng một Đạo, Tách nhau ra, Đạo vỡ tan thành hỗn loạn. Hợp lại, Đạo trở nên tròn đầy như mặt trăng, Soi chiếu lòng người, và dẫn dắt nhân gian. Đọc ít hơn
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 27/10:
    Bài thơ chương 4:
    Khi Con Người Lạm Dụng Quyền Lực – Trời Thu Mệnh
    Khi quyền lực vượt khỏi giới hạn của Đạo,
    Ánh sáng hóa thành lửa dữ thiêu dân.
    Khi ngai vàng cao hơn công lý,
    Trời sẽ nổi giông, thu lại mệnh vương.
    Kẻ say quyền không nghe được tiếng dân than,
    Vì tai đã bị bịt bằng lời ca tụng giả.
    Kẻ giữ quyền không thấy được dân đau,
    Vì mắt đã mờ trong hào quang quyền thế.
    Quyền lực vốn là con sông trong,
    Nhưng bàn tay tham đã khuấy đục lòng nguồn.
    Trời nhìn xuống, lòng dân nổi sóng,
    Mệnh vương kia – sớm muộn cũng tàn phai.
    Trời không giận, nhưng Trời không dung,
    Bởi lẽ công bằng là nhịp đập của Đạo.
    Khi kẻ trị dân quên mất mình là kẻ phục vụ,
    Thì Thiên mệnh hóa tro bay trong gió.
    Bao triều đại ngã xuống trong tiếng hò reo,
    Không vì gươm giáo, mà vì lòng dân vỡ nát.
    Không vì kẻ thù, mà vì chính sự kiêu căng,
    Đã dám ngạo nghễ đứng trên ý Trời.
    Khi quyền lực hóa ngục tù cho dân,
    Trời sẽ mở cánh cửa của sấm sét.
    Khi con người tự phong mình là Thượng Đế,
    Trời sẽ cho họ nếm vị của hư vô.
    Trời thu mệnh – không cần lời tuyên cáo,
    Chỉ cần một cơn mưa lạ, một mùa hạn dài.
    Một niềm tin sụp đổ trong lòng dân,
    Cũng đủ khiến ngai vàng nứt vỡ.
    Người khôn biết dừng trước khi Đạo tắt,
    Kẻ ngu cười trong lúc Trời rút tay.
    Bởi Thiên mệnh không mất trong một đêm,
    Mà rời đi từng hơi thở của nhân tâm.
    Đừng hỏi vì sao Trời im lặng,
    Vì Trời đang đợi lòng người tự thức tỉnh.
    Nếu còn một hạt thiện trong quyền lực,
    Trời sẽ để lại một tia sáng cuối cùng.
    Nhưng khi bóng tối chiếm hết lòng người,
    Mệnh Trời không thu, Trời cũng rút Đạo.
    Và lúc đó, mọi đế vương sẽ hiểu:
    Quyền lực không phải để sở hữu, mà để phụng sự.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ chương 4: Khi Con Người Lạm Dụng Quyền Lực – Trời Thu Mệnh Khi quyền lực vượt khỏi giới hạn của Đạo, Ánh sáng hóa thành lửa dữ thiêu dân. Khi ngai vàng cao hơn công lý, Trời sẽ nổi giông, thu lại mệnh vương. Kẻ say quyền không nghe được tiếng dân than, Vì tai đã bị bịt bằng lời ca tụng giả. Kẻ giữ quyền không thấy được dân đau, Vì mắt đã mờ trong hào quang quyền thế. Quyền lực vốn là con sông trong, Nhưng bàn tay tham đã khuấy đục lòng nguồn. Trời nhìn xuống, lòng dân nổi sóng, Mệnh vương kia – sớm muộn cũng tàn phai. Trời không giận, nhưng Trời không dung, Bởi lẽ công bằng là nhịp đập của Đạo. Khi kẻ trị dân quên mất mình là kẻ phục vụ, Thì Thiên mệnh hóa tro bay trong gió. Bao triều đại ngã xuống trong tiếng hò reo, Không vì gươm giáo, mà vì lòng dân vỡ nát. Không vì kẻ thù, mà vì chính sự kiêu căng, Đã dám ngạo nghễ đứng trên ý Trời. Khi quyền lực hóa ngục tù cho dân, Trời sẽ mở cánh cửa của sấm sét. Khi con người tự phong mình là Thượng Đế, Trời sẽ cho họ nếm vị của hư vô. Trời thu mệnh – không cần lời tuyên cáo, Chỉ cần một cơn mưa lạ, một mùa hạn dài. Một niềm tin sụp đổ trong lòng dân, Cũng đủ khiến ngai vàng nứt vỡ. Người khôn biết dừng trước khi Đạo tắt, Kẻ ngu cười trong lúc Trời rút tay. Bởi Thiên mệnh không mất trong một đêm, Mà rời đi từng hơi thở của nhân tâm. Đừng hỏi vì sao Trời im lặng, Vì Trời đang đợi lòng người tự thức tỉnh. Nếu còn một hạt thiện trong quyền lực, Trời sẽ để lại một tia sáng cuối cùng. Nhưng khi bóng tối chiếm hết lòng người, Mệnh Trời không thu, Trời cũng rút Đạo. Và lúc đó, mọi đế vương sẽ hiểu: Quyền lực không phải để sở hữu, mà để phụng sự. Đọc ít hơn
    Love
    1
    0 Comments 0 Shares
More Stories