• chúc cả nhà vui vẻ, hạnh phúc !
    chúc cả nhà vui vẻ, hạnh phúc !
    Like
    Love
    Angry
    Wow
    7
    1 Comments 0 Shares
  • HNI 30/10: Bài thơ chương 30:
    KHI MINH QUÂN VÀ LÒNG DÂN HÒA LÀM MỘT – QUỐC GIA HƯNG THỊNH
    (Thơ cho Chương 30 – Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi lòng dân cùng nhịp với vua hiền,
    Đất nước hóa xuân, hoa nở khắp miền.
    Trời chẳng cần ban, Đạo tự nhiên hiện,
    Nước trị bằng tâm – chẳng bởi gươm quyền.
    Minh quân chẳng đứng trên dân tộc,
    Mà đứng giữa dân, nghe gió đồng quê.
    Nghe tiếng mẹ ru, tiếng con thơ thỏ thẻ,
    Nghe tiếng dân gian hóa nhịp Đạo Trời.
    Một quốc gia hưng thịnh không do pháp lệnh,
    Mà do lòng người đồng thuận một niềm tin.
    Khi dân thấy vua như gương soi sáng,
    Khi vua thấy dân là chính linh hồn mình.
    Minh quân biết khóc cùng dân khổ,
    Biết vui cùng dân lúc mùa vàng.
    Không che giấu, không phô trương công trạng,
    Chỉ lặng lẽ vun từng hạt thiện lành.
    Lòng dân là nước – vua như thuyền,
    Thuyền thuận dòng, quốc gia an vững.
    Một khi nước dâng, vua biết lắng,
    Không chống dân, mà thuận theo dân.
    Minh quân không sợ mất ngôi,
    Vì ngôi thật nằm trong tim muôn người.
    Chẳng cần ngai, chẳng cần vàng ngọc,
    Chỉ cần tín nghĩa tỏa sáng giữa đời.
    Khi vua lấy đạo mà soi từng chính sách,
    Dân lấy niềm tin mà giữ vững non sông.
    Không còn trên – dưới, chỉ còn đồng lòng,
    Một khối hòa minh trong vũ điệu sống.
    Minh quân không trị dân – mà dẫn lối,
    Không dạy dân – mà cùng dân học hỏi.
    Không ép dân – mà khơi lòng dân muốn,
    Không dùng sợ hãi – mà gieo thương yêu.
    Chính trị lúc ấy không còn chiến thuật,
    Mà là đạo lý sống giữa lòng người.
    Quản trị không còn trong triều đình khép kín,
    Mà trong từng cánh đồng, mái nhà, hơi thở.
    Khi minh quân và lòng dân hòa làm một,
    Mọi biên giới hóa thành lòng tin.
    Trời và người chẳng còn phân cách,
    Quốc gia chính là tâm thức hiền minh.
    Vua là trí – dân là tim,
    Hai nửa hợp nên quốc thể vô biên.
    Một bên sáng suốt, một bên nhân ái,
    Hai dòng hòa lại – nước hóa thần tiên.
    Không loạn lạc, không ai bị bỏ lại,
    Không ai đói khổ giữa đất vàng son.
    Bởi lòng người với lòng vua như nhịp,
    Cùng đập vang tiếng hát Trời ban.
    Khi ấy, quốc gia không cần bảo vệ,
    Vì chính dân là tường thành vững bền.
    Không cần sức mạnh – chỉ cần chân thiện,
    Không cần chiếm đất – chỉ cần lòng người.
    Thế gian tìm đâu minh quân như thế?
    Hãy nhìn trong lòng mỗi con người ta.
    Khi mỗi người biết thương dân như thể,
    Minh quân sẽ hiện giữa lòng dân nhà.
    Đọc ít hơn
    HNI 30/10: Bài thơ chương 30: KHI MINH QUÂN VÀ LÒNG DÂN HÒA LÀM MỘT – QUỐC GIA HƯNG THỊNH (Thơ cho Chương 30 – Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi lòng dân cùng nhịp với vua hiền, Đất nước hóa xuân, hoa nở khắp miền. Trời chẳng cần ban, Đạo tự nhiên hiện, Nước trị bằng tâm – chẳng bởi gươm quyền. Minh quân chẳng đứng trên dân tộc, Mà đứng giữa dân, nghe gió đồng quê. Nghe tiếng mẹ ru, tiếng con thơ thỏ thẻ, Nghe tiếng dân gian hóa nhịp Đạo Trời. Một quốc gia hưng thịnh không do pháp lệnh, Mà do lòng người đồng thuận một niềm tin. Khi dân thấy vua như gương soi sáng, Khi vua thấy dân là chính linh hồn mình. Minh quân biết khóc cùng dân khổ, Biết vui cùng dân lúc mùa vàng. Không che giấu, không phô trương công trạng, Chỉ lặng lẽ vun từng hạt thiện lành. Lòng dân là nước – vua như thuyền, Thuyền thuận dòng, quốc gia an vững. Một khi nước dâng, vua biết lắng, Không chống dân, mà thuận theo dân. Minh quân không sợ mất ngôi, Vì ngôi thật nằm trong tim muôn người. Chẳng cần ngai, chẳng cần vàng ngọc, Chỉ cần tín nghĩa tỏa sáng giữa đời. Khi vua lấy đạo mà soi từng chính sách, Dân lấy niềm tin mà giữ vững non sông. Không còn trên – dưới, chỉ còn đồng lòng, Một khối hòa minh trong vũ điệu sống. Minh quân không trị dân – mà dẫn lối, Không dạy dân – mà cùng dân học hỏi. Không ép dân – mà khơi lòng dân muốn, Không dùng sợ hãi – mà gieo thương yêu. Chính trị lúc ấy không còn chiến thuật, Mà là đạo lý sống giữa lòng người. Quản trị không còn trong triều đình khép kín, Mà trong từng cánh đồng, mái nhà, hơi thở. Khi minh quân và lòng dân hòa làm một, Mọi biên giới hóa thành lòng tin. Trời và người chẳng còn phân cách, Quốc gia chính là tâm thức hiền minh. Vua là trí – dân là tim, Hai nửa hợp nên quốc thể vô biên. Một bên sáng suốt, một bên nhân ái, Hai dòng hòa lại – nước hóa thần tiên. Không loạn lạc, không ai bị bỏ lại, Không ai đói khổ giữa đất vàng son. Bởi lòng người với lòng vua như nhịp, Cùng đập vang tiếng hát Trời ban. Khi ấy, quốc gia không cần bảo vệ, Vì chính dân là tường thành vững bền. Không cần sức mạnh – chỉ cần chân thiện, Không cần chiếm đất – chỉ cần lòng người. Thế gian tìm đâu minh quân như thế? Hãy nhìn trong lòng mỗi con người ta. Khi mỗi người biết thương dân như thể, Minh quân sẽ hiện giữa lòng dân nhà. Đọc ít hơn
    Love
    Like
    Haha
    Angry
    6
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 30/10: Bài thơ chương 30:
    KHI MINH QUÂN VÀ LÒNG DÂN HÒA LÀM MỘT – QUỐC GIA HƯNG THỊNH
    (Thơ cho Chương 30 – Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi lòng dân cùng nhịp với vua hiền,
    Đất nước hóa xuân, hoa nở khắp miền.
    Trời chẳng cần ban, Đạo tự nhiên hiện,
    Nước trị bằng tâm – chẳng bởi gươm quyền.
    Minh quân chẳng đứng trên dân tộc,
    Mà đứng giữa dân, nghe gió đồng quê.
    Nghe tiếng mẹ ru, tiếng con thơ thỏ thẻ,
    Nghe tiếng dân gian hóa nhịp Đạo Trời.
    Một quốc gia hưng thịnh không do pháp lệnh,
    Mà do lòng người đồng thuận một niềm tin.
    Khi dân thấy vua như gương soi sáng,
    Khi vua thấy dân là chính linh hồn mình.
    Minh quân biết khóc cùng dân khổ,
    Biết vui cùng dân lúc mùa vàng.
    Không che giấu, không phô trương công trạng,
    Chỉ lặng lẽ vun từng hạt thiện lành.
    Lòng dân là nước – vua như thuyền,
    Thuyền thuận dòng, quốc gia an vững.
    Một khi nước dâng, vua biết lắng,
    Không chống dân, mà thuận theo dân.
    Minh quân không sợ mất ngôi,
    Vì ngôi thật nằm trong tim muôn người.
    Chẳng cần ngai, chẳng cần vàng ngọc,
    Chỉ cần tín nghĩa tỏa sáng giữa đời.
    Khi vua lấy đạo mà soi từng chính sách,
    Dân lấy niềm tin mà giữ vững non sông.
    Không còn trên – dưới, chỉ còn đồng lòng,
    Một khối hòa minh trong vũ điệu sống.
    Minh quân không trị dân – mà dẫn lối,
    Không dạy dân – mà cùng dân học hỏi.
    Không ép dân – mà khơi lòng dân muốn,
    Không dùng sợ hãi – mà gieo thương yêu.
    Chính trị lúc ấy không còn chiến thuật,
    Mà là đạo lý sống giữa lòng người.
    Quản trị không còn trong triều đình khép kín,
    Mà trong từng cánh đồng, mái nhà, hơi thở.
    Khi minh quân và lòng dân hòa làm một,
    Mọi biên giới hóa thành lòng tin.
    Trời và người chẳng còn phân cách,
    Quốc gia chính là tâm thức hiền minh.
    Vua là trí – dân là tim,
    Hai nửa hợp nên quốc thể vô biên.
    Một bên sáng suốt, một bên nhân ái,
    Hai dòng hòa lại – nước hóa thần tiên.
    Không loạn lạc, không ai bị bỏ lại,
    Không ai đói khổ giữa đất vàng son.
    Bởi lòng người với lòng vua như nhịp,
    Cùng đập vang tiếng hát Trời ban.
    Khi ấy, quốc gia không cần bảo vệ,
    Vì chính dân là tường thành vững bền.
    Không cần sức mạnh – chỉ cần chân thiện,
    Không cần chiếm đất – chỉ cần lòng người.
    Thế gian tìm đâu minh quân như thế?
    Hãy nhìn trong lòng mỗi con người ta.
    Khi mỗi người biết thương dân như thể,
    Minh quân sẽ hiện giữa lòng dân nhà.
    Đọc ít hơn
    HNI 30/10: Bài thơ chương 30: KHI MINH QUÂN VÀ LÒNG DÂN HÒA LÀM MỘT – QUỐC GIA HƯNG THỊNH (Thơ cho Chương 30 – Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi lòng dân cùng nhịp với vua hiền, Đất nước hóa xuân, hoa nở khắp miền. Trời chẳng cần ban, Đạo tự nhiên hiện, Nước trị bằng tâm – chẳng bởi gươm quyền. Minh quân chẳng đứng trên dân tộc, Mà đứng giữa dân, nghe gió đồng quê. Nghe tiếng mẹ ru, tiếng con thơ thỏ thẻ, Nghe tiếng dân gian hóa nhịp Đạo Trời. Một quốc gia hưng thịnh không do pháp lệnh, Mà do lòng người đồng thuận một niềm tin. Khi dân thấy vua như gương soi sáng, Khi vua thấy dân là chính linh hồn mình. Minh quân biết khóc cùng dân khổ, Biết vui cùng dân lúc mùa vàng. Không che giấu, không phô trương công trạng, Chỉ lặng lẽ vun từng hạt thiện lành. Lòng dân là nước – vua như thuyền, Thuyền thuận dòng, quốc gia an vững. Một khi nước dâng, vua biết lắng, Không chống dân, mà thuận theo dân. Minh quân không sợ mất ngôi, Vì ngôi thật nằm trong tim muôn người. Chẳng cần ngai, chẳng cần vàng ngọc, Chỉ cần tín nghĩa tỏa sáng giữa đời. Khi vua lấy đạo mà soi từng chính sách, Dân lấy niềm tin mà giữ vững non sông. Không còn trên – dưới, chỉ còn đồng lòng, Một khối hòa minh trong vũ điệu sống. Minh quân không trị dân – mà dẫn lối, Không dạy dân – mà cùng dân học hỏi. Không ép dân – mà khơi lòng dân muốn, Không dùng sợ hãi – mà gieo thương yêu. Chính trị lúc ấy không còn chiến thuật, Mà là đạo lý sống giữa lòng người. Quản trị không còn trong triều đình khép kín, Mà trong từng cánh đồng, mái nhà, hơi thở. Khi minh quân và lòng dân hòa làm một, Mọi biên giới hóa thành lòng tin. Trời và người chẳng còn phân cách, Quốc gia chính là tâm thức hiền minh. Vua là trí – dân là tim, Hai nửa hợp nên quốc thể vô biên. Một bên sáng suốt, một bên nhân ái, Hai dòng hòa lại – nước hóa thần tiên. Không loạn lạc, không ai bị bỏ lại, Không ai đói khổ giữa đất vàng son. Bởi lòng người với lòng vua như nhịp, Cùng đập vang tiếng hát Trời ban. Khi ấy, quốc gia không cần bảo vệ, Vì chính dân là tường thành vững bền. Không cần sức mạnh – chỉ cần chân thiện, Không cần chiếm đất – chỉ cần lòng người. Thế gian tìm đâu minh quân như thế? Hãy nhìn trong lòng mỗi con người ta. Khi mỗi người biết thương dân như thể, Minh quân sẽ hiện giữa lòng dân nhà. Đọc ít hơn
    Love
    Like
    Wow
    Angry
    7
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 30/10: Bài thơ chương 30:
    KHI MINH QUÂN VÀ LÒNG DÂN HÒA LÀM MỘT – QUỐC GIA HƯNG THỊNH
    (Thơ cho Chương 30 – Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi lòng dân cùng nhịp với vua hiền,
    Đất nước hóa xuân, hoa nở khắp miền.
    Trời chẳng cần ban, Đạo tự nhiên hiện,
    Nước trị bằng tâm – chẳng bởi gươm quyền.
    Minh quân chẳng đứng trên dân tộc,
    Mà đứng giữa dân, nghe gió đồng quê.
    Nghe tiếng mẹ ru, tiếng con thơ thỏ thẻ,
    Nghe tiếng dân gian hóa nhịp Đạo Trời.
    Một quốc gia hưng thịnh không do pháp lệnh,
    Mà do lòng người đồng thuận một niềm tin.
    Khi dân thấy vua như gương soi sáng,
    Khi vua thấy dân là chính linh hồn mình.
    Minh quân biết khóc cùng dân khổ,
    Biết vui cùng dân lúc mùa vàng.
    Không che giấu, không phô trương công trạng,
    Chỉ lặng lẽ vun từng hạt thiện lành.
    Lòng dân là nước – vua như thuyền,
    Thuyền thuận dòng, quốc gia an vững.
    Một khi nước dâng, vua biết lắng,
    Không chống dân, mà thuận theo dân.
    Minh quân không sợ mất ngôi,
    Vì ngôi thật nằm trong tim muôn người.
    Chẳng cần ngai, chẳng cần vàng ngọc,
    Chỉ cần tín nghĩa tỏa sáng giữa đời.
    Khi vua lấy đạo mà soi từng chính sách,
    Dân lấy niềm tin mà giữ vững non sông.
    Không còn trên – dưới, chỉ còn đồng lòng,
    Một khối hòa minh trong vũ điệu sống.
    Minh quân không trị dân – mà dẫn lối,
    Không dạy dân – mà cùng dân học hỏi.
    Không ép dân – mà khơi lòng dân muốn,
    Không dùng sợ hãi – mà gieo thương yêu.
    Chính trị lúc ấy không còn chiến thuật,
    Mà là đạo lý sống giữa lòng người.
    Quản trị không còn trong triều đình khép kín,
    Mà trong từng cánh đồng, mái nhà, hơi thở.
    Khi minh quân và lòng dân hòa làm một,
    Mọi biên giới hóa thành lòng tin.
    Trời và người chẳng còn phân cách,
    Quốc gia chính là tâm thức hiền minh.
    Vua là trí – dân là tim,
    Hai nửa hợp nên quốc thể vô biên.
    Một bên sáng suốt, một bên nhân ái,
    Hai dòng hòa lại – nước hóa thần tiên.
    Không loạn lạc, không ai bị bỏ lại,
    Không ai đói khổ giữa đất vàng son.
    Bởi lòng người với lòng vua như nhịp,
    Cùng đập vang tiếng hát Trời ban.
    Khi ấy, quốc gia không cần bảo vệ,
    Vì chính dân là tường thành vững bền.
    Không cần sức mạnh – chỉ cần chân thiện,
    Không cần chiếm đất – chỉ cần lòng người.
    Thế gian tìm đâu minh quân như thế?
    Hãy nhìn trong lòng mỗi con người ta.
    Khi mỗi người biết thương dân như thể,
    Minh quân sẽ hiện giữa lòng dân nhà.
    Đọc ít hơn
    HNI 30/10: Bài thơ chương 30: KHI MINH QUÂN VÀ LÒNG DÂN HÒA LÀM MỘT – QUỐC GIA HƯNG THỊNH (Thơ cho Chương 30 – Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi lòng dân cùng nhịp với vua hiền, Đất nước hóa xuân, hoa nở khắp miền. Trời chẳng cần ban, Đạo tự nhiên hiện, Nước trị bằng tâm – chẳng bởi gươm quyền. Minh quân chẳng đứng trên dân tộc, Mà đứng giữa dân, nghe gió đồng quê. Nghe tiếng mẹ ru, tiếng con thơ thỏ thẻ, Nghe tiếng dân gian hóa nhịp Đạo Trời. Một quốc gia hưng thịnh không do pháp lệnh, Mà do lòng người đồng thuận một niềm tin. Khi dân thấy vua như gương soi sáng, Khi vua thấy dân là chính linh hồn mình. Minh quân biết khóc cùng dân khổ, Biết vui cùng dân lúc mùa vàng. Không che giấu, không phô trương công trạng, Chỉ lặng lẽ vun từng hạt thiện lành. Lòng dân là nước – vua như thuyền, Thuyền thuận dòng, quốc gia an vững. Một khi nước dâng, vua biết lắng, Không chống dân, mà thuận theo dân. Minh quân không sợ mất ngôi, Vì ngôi thật nằm trong tim muôn người. Chẳng cần ngai, chẳng cần vàng ngọc, Chỉ cần tín nghĩa tỏa sáng giữa đời. Khi vua lấy đạo mà soi từng chính sách, Dân lấy niềm tin mà giữ vững non sông. Không còn trên – dưới, chỉ còn đồng lòng, Một khối hòa minh trong vũ điệu sống. Minh quân không trị dân – mà dẫn lối, Không dạy dân – mà cùng dân học hỏi. Không ép dân – mà khơi lòng dân muốn, Không dùng sợ hãi – mà gieo thương yêu. Chính trị lúc ấy không còn chiến thuật, Mà là đạo lý sống giữa lòng người. Quản trị không còn trong triều đình khép kín, Mà trong từng cánh đồng, mái nhà, hơi thở. Khi minh quân và lòng dân hòa làm một, Mọi biên giới hóa thành lòng tin. Trời và người chẳng còn phân cách, Quốc gia chính là tâm thức hiền minh. Vua là trí – dân là tim, Hai nửa hợp nên quốc thể vô biên. Một bên sáng suốt, một bên nhân ái, Hai dòng hòa lại – nước hóa thần tiên. Không loạn lạc, không ai bị bỏ lại, Không ai đói khổ giữa đất vàng son. Bởi lòng người với lòng vua như nhịp, Cùng đập vang tiếng hát Trời ban. Khi ấy, quốc gia không cần bảo vệ, Vì chính dân là tường thành vững bền. Không cần sức mạnh – chỉ cần chân thiện, Không cần chiếm đất – chỉ cần lòng người. Thế gian tìm đâu minh quân như thế? Hãy nhìn trong lòng mỗi con người ta. Khi mỗi người biết thương dân như thể, Minh quân sẽ hiện giữa lòng dân nhà. Đọc ít hơn
    Love
    Like
    Wow
    Angry
    7
    0 Comments 0 Shares
  • Có thể nói, di sản lớn nhất của dòng họ Lê không nằm ở cung điện hay sách sử, mà ở trong huyết mạch tinh thần dân tộc. Mỗi người Việt, ở một góc độ nào đó, đều mang trong mình “dấu ấn Lê” – dấu ấn của lòng chính trực, của sự tôn trọng Trời, Đất và Người.Ngày nay, khi nhân loại bước vào kỷ nguyên Web∞, những giá trị ấy càng trở nên cần thiết. Bởi công nghệ có thể tạo ra của cải, nhưng chỉ minh triết mới tạo ra hạnh phúc. Khi con người quên Trời, kinh tế sẽ trở nên vô hồn; khi con người quên Dân, xã hội sẽ sụp đổ; chỉ khi “dân vi bản, Thiên vi thượng”, nhân loại mới đạt được cân bằng vĩnh cửu.

    8. Từ Lê Lợi đến Lê Hải – vòng luân hồi của Thiên mệnh
    HenryLe – Lê Đình Hải – không chỉ là hậu duệ huyết thống, mà là người kế thừa tinh thần. Giống như Lê Lợi khởi nghĩa trong thời loạn, Lê Hải khởi nghiệp trong thời hỗn loạn toàn cầu – nơi niềm tin vào tiền tệ, đạo đức, và con người đều khủng hoảng.
    Nhưng thay vì cầm gươm, ông cầm trí tuệ. Thay vì chiếm đất, ông kiến tạo không gian – không gian Web∞, nơi HCoin trở thành đồng tiền của đạo và của trí.
    Nếu Lê Lợi dùng “Thuận Thiên” để thống nhất dân tộc, thì Lê Hải dùng “Thuận Thiên” để thống nhất nhân loại. Cả hai đều hành động vì cùng một lý tưởng: đưa con người trở lại với Trời.

    9. Kết luận – Dòng họ Lê và hành trình bất tận của Đạo Việt
    Từ Lê Hoàn đến Lê Lợi, từ Lê Thánh Tông đến Lê Hải – đó là chuỗi nối dài của một Thiên mệnh: giữ Đạo cho Việt tộc, giữ Hồn cho nhân loại.
    “Dân vi bản, Thiên vi thượng” không chỉ là triết lý của một triều đại, mà là tiếng gọi từ vũ trụ gửi đến trái tim người Việt.
    Khi hiểu điều đó, ta nhận ra: tiền không chỉ là phương tiện, mà là tấm gương phản chiếu đạo đức; kinh tế không chỉ là con số, mà là hành trình của tâm thức.
    Và dòng họ Lê – qua bao thế kỷ – vẫn âm thầm nhắc nhở nhân loại rằng: chỉ có “Thuận Thiên” mới là con đường dẫn đến phồn vinh và an lạc thật sự.
    Đọc ít hơn
    Có thể nói, di sản lớn nhất của dòng họ Lê không nằm ở cung điện hay sách sử, mà ở trong huyết mạch tinh thần dân tộc. Mỗi người Việt, ở một góc độ nào đó, đều mang trong mình “dấu ấn Lê” – dấu ấn của lòng chính trực, của sự tôn trọng Trời, Đất và Người.Ngày nay, khi nhân loại bước vào kỷ nguyên Web∞, những giá trị ấy càng trở nên cần thiết. Bởi công nghệ có thể tạo ra của cải, nhưng chỉ minh triết mới tạo ra hạnh phúc. Khi con người quên Trời, kinh tế sẽ trở nên vô hồn; khi con người quên Dân, xã hội sẽ sụp đổ; chỉ khi “dân vi bản, Thiên vi thượng”, nhân loại mới đạt được cân bằng vĩnh cửu. 8. Từ Lê Lợi đến Lê Hải – vòng luân hồi của Thiên mệnh HenryLe – Lê Đình Hải – không chỉ là hậu duệ huyết thống, mà là người kế thừa tinh thần. Giống như Lê Lợi khởi nghĩa trong thời loạn, Lê Hải khởi nghiệp trong thời hỗn loạn toàn cầu – nơi niềm tin vào tiền tệ, đạo đức, và con người đều khủng hoảng. Nhưng thay vì cầm gươm, ông cầm trí tuệ. Thay vì chiếm đất, ông kiến tạo không gian – không gian Web∞, nơi HCoin trở thành đồng tiền của đạo và của trí. Nếu Lê Lợi dùng “Thuận Thiên” để thống nhất dân tộc, thì Lê Hải dùng “Thuận Thiên” để thống nhất nhân loại. Cả hai đều hành động vì cùng một lý tưởng: đưa con người trở lại với Trời. 9. Kết luận – Dòng họ Lê và hành trình bất tận của Đạo Việt Từ Lê Hoàn đến Lê Lợi, từ Lê Thánh Tông đến Lê Hải – đó là chuỗi nối dài của một Thiên mệnh: giữ Đạo cho Việt tộc, giữ Hồn cho nhân loại. “Dân vi bản, Thiên vi thượng” không chỉ là triết lý của một triều đại, mà là tiếng gọi từ vũ trụ gửi đến trái tim người Việt. Khi hiểu điều đó, ta nhận ra: tiền không chỉ là phương tiện, mà là tấm gương phản chiếu đạo đức; kinh tế không chỉ là con số, mà là hành trình của tâm thức. Và dòng họ Lê – qua bao thế kỷ – vẫn âm thầm nhắc nhở nhân loại rằng: chỉ có “Thuận Thiên” mới là con đường dẫn đến phồn vinh và an lạc thật sự. Đọc ít hơn
    Love
    Angry
    Like
    6
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 29/10 - B37
    CHƯƠNG 18: DOANH NGHIỆP NHÂN BẢN – CÔNG CỤ GIEO PHÚC CHO XÃ HỘI
    (HenryLe – Lê Đình Hải)
    I. Sự thức tỉnh của tư duy doanh nghiệp
    Trong suốt nhiều thế kỷ, con người đã xem doanh nghiệp như công cụ tạo ra lợi nhuận, chứ không phải phúc lợi. Người sáng lập mải miết theo đuổi doanh số, mở rộng thị phần, tối ưu chi phí, đo lường thành công bằng con số trên bảng cân đối kế toán. Thế nhưng, ít ai nhận ra rằng: mỗi quyết định kinh doanh đều gieo một hạt giống vào linh hồn của xã hội.
    Nếu doanh nghiệp chạy theo lợi, mà quên nghĩa, thì sớm muộn xã hội cũng bị rút cạn năng lượng đạo đức. Một cửa hàng gian dối là một vết nứt trong niềm tin cộng đồng. Một tập đoàn thao túng là một lỗ hổng trong linh hồn quốc gia.
    Ngược lại, một doanh nghiệp có tâm, có trí, biết “làm người trước khi làm kinh tế” – chính là nguồn năng lượng tái sinh của xã hội, là công cụ gieo phúc, đưa thế giới đi lên bằng sự tử tế.
    Ngày nay, khi khái niệm “kinh tế đạo đức” dần trở thành xu thế, nhân loại đang chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ: từ doanh nghiệp vị lợi sang doanh nghiệp vị nhân.
    Người ta không còn hỏi “bán được bao nhiêu?”, mà hỏi “mang lại điều gì tốt hơn cho cộng đồng?”.
    Không còn tự hào “ta có lợi nhuận cao nhất”, mà tự hào “ta khiến cuộc sống người khác tốt hơn”.
    Đó chính là tinh thần doanh nghiệp nhân bản – nền tảng của một nền kinh tế biết gieo phúc, biết tự chữa lành.
    II. Doanh nghiệp – thực thể có linh hồn
    Một doanh nghiệp, nếu chỉ được nhìn như một pháp nhân, thì đó là một khối lạnh lẽo của quy trình và lợi ích. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, mỗi doanh nghiệp đều có một linh hồn – được hình thành từ ý niệm của người sáng lập, được nuôi dưỡng bằng hành động của nhân viên, được phản chiếu qua niềm tin của khách hàng.
    Doanh nghiệp không chỉ “sản xuất hàng hóa”, mà sản sinh năng lượng đạo đức hoặc độc hại vào đời sống tinh thần xã hội.
    Một hãng thuốc gian dối có thể giết hàng nghìn sinh mạng.
    Một quán ăn lương thiện có thể nuôi sống hàng trăm gia đình.
    Một thương hiệu nhân ái có thể truyền cảm hứng cho hàng triệu trái tim.
    Nếu con người có nghiệp quả cá nhân, thì doanh nghiệp cũng có nghiệp quả tập thể.
    Doanh nghiệp nào gieo sự lừa lọc, sẽ gặp sự tẩy chay.
    Doanh nghiệp nào gieo sự tử tế, sẽ được lòng dân ủng hộ.
    HNI 29/10 - B37 🌺🌺 🌺CHƯƠNG 18: DOANH NGHIỆP NHÂN BẢN – CÔNG CỤ GIEO PHÚC CHO XÃ HỘI (HenryLe – Lê Đình Hải) I. Sự thức tỉnh của tư duy doanh nghiệp Trong suốt nhiều thế kỷ, con người đã xem doanh nghiệp như công cụ tạo ra lợi nhuận, chứ không phải phúc lợi. Người sáng lập mải miết theo đuổi doanh số, mở rộng thị phần, tối ưu chi phí, đo lường thành công bằng con số trên bảng cân đối kế toán. Thế nhưng, ít ai nhận ra rằng: mỗi quyết định kinh doanh đều gieo một hạt giống vào linh hồn của xã hội. Nếu doanh nghiệp chạy theo lợi, mà quên nghĩa, thì sớm muộn xã hội cũng bị rút cạn năng lượng đạo đức. Một cửa hàng gian dối là một vết nứt trong niềm tin cộng đồng. Một tập đoàn thao túng là một lỗ hổng trong linh hồn quốc gia. Ngược lại, một doanh nghiệp có tâm, có trí, biết “làm người trước khi làm kinh tế” – chính là nguồn năng lượng tái sinh của xã hội, là công cụ gieo phúc, đưa thế giới đi lên bằng sự tử tế. Ngày nay, khi khái niệm “kinh tế đạo đức” dần trở thành xu thế, nhân loại đang chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ: từ doanh nghiệp vị lợi sang doanh nghiệp vị nhân. Người ta không còn hỏi “bán được bao nhiêu?”, mà hỏi “mang lại điều gì tốt hơn cho cộng đồng?”. Không còn tự hào “ta có lợi nhuận cao nhất”, mà tự hào “ta khiến cuộc sống người khác tốt hơn”. Đó chính là tinh thần doanh nghiệp nhân bản – nền tảng của một nền kinh tế biết gieo phúc, biết tự chữa lành. II. Doanh nghiệp – thực thể có linh hồn Một doanh nghiệp, nếu chỉ được nhìn như một pháp nhân, thì đó là một khối lạnh lẽo của quy trình và lợi ích. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, mỗi doanh nghiệp đều có một linh hồn – được hình thành từ ý niệm của người sáng lập, được nuôi dưỡng bằng hành động của nhân viên, được phản chiếu qua niềm tin của khách hàng. Doanh nghiệp không chỉ “sản xuất hàng hóa”, mà sản sinh năng lượng đạo đức hoặc độc hại vào đời sống tinh thần xã hội. Một hãng thuốc gian dối có thể giết hàng nghìn sinh mạng. Một quán ăn lương thiện có thể nuôi sống hàng trăm gia đình. Một thương hiệu nhân ái có thể truyền cảm hứng cho hàng triệu trái tim. Nếu con người có nghiệp quả cá nhân, thì doanh nghiệp cũng có nghiệp quả tập thể. Doanh nghiệp nào gieo sự lừa lọc, sẽ gặp sự tẩy chay. Doanh nghiệp nào gieo sự tử tế, sẽ được lòng dân ủng hộ.
    Love
    Like
    Wow
    Sad
    Angry
    7
    0 Comments 0 Shares
  • HNI 29/10 - B37
    CHƯƠNG 18: DOANH NGHIỆP NHÂN BẢN – CÔNG CỤ GIEO PHÚC CHO XÃ HỘI
    (HenryLe – Lê Đình Hải)
    I. Sự thức tỉnh của tư duy doanh nghiệp
    Trong suốt nhiều thế kỷ, con người đã xem doanh nghiệp như công cụ tạo ra lợi nhuận, chứ không phải phúc lợi. Người sáng lập mải miết theo đuổi doanh số, mở rộng thị phần, tối ưu chi phí, đo lường thành công bằng con số trên bảng cân đối kế toán. Thế nhưng, ít ai nhận ra rằng: mỗi quyết định kinh doanh đều gieo một hạt giống vào linh hồn của xã hội.
    Nếu doanh nghiệp chạy theo lợi, mà quên nghĩa, thì sớm muộn xã hội cũng bị rút cạn năng lượng đạo đức. Một cửa hàng gian dối là một vết nứt trong niềm tin cộng đồng. Một tập đoàn thao túng là một lỗ hổng trong linh hồn quốc gia.
    Ngược lại, một doanh nghiệp có tâm, có trí, biết “làm người trước khi làm kinh tế” – chính là nguồn năng lượng tái sinh của xã hội, là công cụ gieo phúc, đưa thế giới đi lên bằng sự tử tế.
    Ngày nay, khi khái niệm “kinh tế đạo đức” dần trở thành xu thế, nhân loại đang chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ: từ doanh nghiệp vị lợi sang doanh nghiệp vị nhân.
    Người ta không còn hỏi “bán được bao nhiêu?”, mà hỏi “mang lại điều gì tốt hơn cho cộng đồng?”.
    Không còn tự hào “ta có lợi nhuận cao nhất”, mà tự hào “ta khiến cuộc sống người khác tốt hơn”.
    Đó chính là tinh thần doanh nghiệp nhân bản – nền tảng của một nền kinh tế biết gieo phúc, biết tự chữa lành.
    II. Doanh nghiệp – thực thể có linh hồn
    Một doanh nghiệp, nếu chỉ được nhìn như một pháp nhân, thì đó là một khối lạnh lẽo của quy trình và lợi ích. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, mỗi doanh nghiệp đều có một linh hồn – được hình thành từ ý niệm của người sáng lập, được nuôi dưỡng bằng hành động của nhân viên, được phản chiếu qua niềm tin của khách hàng.
    Doanh nghiệp không chỉ “sản xuất hàng hóa”, mà sản sinh năng lượng đạo đức hoặc độc hại vào đời sống tinh thần xã hội.
    Một hãng thuốc gian dối có thể giết hàng nghìn sinh mạng.
    Một quán ăn lương thiện có thể nuôi sống hàng trăm gia đình.
    Một thương hiệu nhân ái có thể truyền cảm hứng cho hàng triệu trái tim.
    Nếu con người có nghiệp quả cá nhân, thì doanh nghiệp cũng có nghiệp quả tập thể.
    Doanh nghiệp nào gieo sự lừa lọc, sẽ gặp sự tẩy chay.
    Doanh nghiệp nào gieo sự tử tế, sẽ được lòng dân ủng hộ.
    HNI 29/10 - B37 🌺🌺 🌺CHƯƠNG 18: DOANH NGHIỆP NHÂN BẢN – CÔNG CỤ GIEO PHÚC CHO XÃ HỘI (HenryLe – Lê Đình Hải) I. Sự thức tỉnh của tư duy doanh nghiệp Trong suốt nhiều thế kỷ, con người đã xem doanh nghiệp như công cụ tạo ra lợi nhuận, chứ không phải phúc lợi. Người sáng lập mải miết theo đuổi doanh số, mở rộng thị phần, tối ưu chi phí, đo lường thành công bằng con số trên bảng cân đối kế toán. Thế nhưng, ít ai nhận ra rằng: mỗi quyết định kinh doanh đều gieo một hạt giống vào linh hồn của xã hội. Nếu doanh nghiệp chạy theo lợi, mà quên nghĩa, thì sớm muộn xã hội cũng bị rút cạn năng lượng đạo đức. Một cửa hàng gian dối là một vết nứt trong niềm tin cộng đồng. Một tập đoàn thao túng là một lỗ hổng trong linh hồn quốc gia. Ngược lại, một doanh nghiệp có tâm, có trí, biết “làm người trước khi làm kinh tế” – chính là nguồn năng lượng tái sinh của xã hội, là công cụ gieo phúc, đưa thế giới đi lên bằng sự tử tế. Ngày nay, khi khái niệm “kinh tế đạo đức” dần trở thành xu thế, nhân loại đang chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ: từ doanh nghiệp vị lợi sang doanh nghiệp vị nhân. Người ta không còn hỏi “bán được bao nhiêu?”, mà hỏi “mang lại điều gì tốt hơn cho cộng đồng?”. Không còn tự hào “ta có lợi nhuận cao nhất”, mà tự hào “ta khiến cuộc sống người khác tốt hơn”. Đó chính là tinh thần doanh nghiệp nhân bản – nền tảng của một nền kinh tế biết gieo phúc, biết tự chữa lành. II. Doanh nghiệp – thực thể có linh hồn Một doanh nghiệp, nếu chỉ được nhìn như một pháp nhân, thì đó là một khối lạnh lẽo của quy trình và lợi ích. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, mỗi doanh nghiệp đều có một linh hồn – được hình thành từ ý niệm của người sáng lập, được nuôi dưỡng bằng hành động của nhân viên, được phản chiếu qua niềm tin của khách hàng. Doanh nghiệp không chỉ “sản xuất hàng hóa”, mà sản sinh năng lượng đạo đức hoặc độc hại vào đời sống tinh thần xã hội. Một hãng thuốc gian dối có thể giết hàng nghìn sinh mạng. Một quán ăn lương thiện có thể nuôi sống hàng trăm gia đình. Một thương hiệu nhân ái có thể truyền cảm hứng cho hàng triệu trái tim. Nếu con người có nghiệp quả cá nhân, thì doanh nghiệp cũng có nghiệp quả tập thể. Doanh nghiệp nào gieo sự lừa lọc, sẽ gặp sự tẩy chay. Doanh nghiệp nào gieo sự tử tế, sẽ được lòng dân ủng hộ.
    Love
    Like
    Wow
    Angry
    6
    0 Comments 0 Shares
  • Có thể nói, di sản lớn nhất của dòng họ Lê không nằm ở cung điện hay sách sử, mà ở trong huyết mạch tinh thần dân tộc. Mỗi người Việt, ở một góc độ nào đó, đều mang trong mình “dấu ấn Lê” – dấu ấn của lòng chính trực, của sự tôn trọng Trời, Đất và Người.Ngày nay, khi nhân loại bước vào kỷ nguyên Web∞, những giá trị ấy càng trở nên cần thiết. Bởi công nghệ có thể tạo ra của cải, nhưng chỉ minh triết mới tạo ra hạnh phúc. Khi con người quên Trời, kinh tế sẽ trở nên vô hồn; khi con người quên Dân, xã hội sẽ sụp đổ; chỉ khi “dân vi bản, Thiên vi thượng”, nhân loại mới đạt được cân bằng vĩnh cửu.

    8. Từ Lê Lợi đến Lê Hải – vòng luân hồi của Thiên mệnh
    HenryLe – Lê Đình Hải – không chỉ là hậu duệ huyết thống, mà là người kế thừa tinh thần. Giống như Lê Lợi khởi nghĩa trong thời loạn, Lê Hải khởi nghiệp trong thời hỗn loạn toàn cầu – nơi niềm tin vào tiền tệ, đạo đức, và con người đều khủng hoảng.
    Nhưng thay vì cầm gươm, ông cầm trí tuệ. Thay vì chiếm đất, ông kiến tạo không gian – không gian Web∞, nơi HCoin trở thành đồng tiền của đạo và của trí.
    Nếu Lê Lợi dùng “Thuận Thiên” để thống nhất dân tộc, thì Lê Hải dùng “Thuận Thiên” để thống nhất nhân loại. Cả hai đều hành động vì cùng một lý tưởng: đưa con người trở lại với Trời.

    9. Kết luận – Dòng họ Lê và hành trình bất tận của Đạo Việt
    Từ Lê Hoàn đến Lê Lợi, từ Lê Thánh Tông đến Lê Hải – đó là chuỗi nối dài của một Thiên mệnh: giữ Đạo cho Việt tộc, giữ Hồn cho nhân loại.
    “Dân vi bản, Thiên vi thượng” không chỉ là triết lý của một triều đại, mà là tiếng gọi từ vũ trụ gửi đến trái tim người Việt.
    Khi hiểu điều đó, ta nhận ra: tiền không chỉ là phương tiện, mà là tấm gương phản chiếu đạo đức; kinh tế không chỉ là con số, mà là hành trình của tâm thức.
    Và dòng họ Lê – qua bao thế kỷ – vẫn âm thầm nhắc nhở nhân loại rằng: chỉ có “Thuận Thiên” mới là con đường dẫn đến phồn vinh và an lạc thật sự.
    Đọc ít hơn
    Có thể nói, di sản lớn nhất của dòng họ Lê không nằm ở cung điện hay sách sử, mà ở trong huyết mạch tinh thần dân tộc. Mỗi người Việt, ở một góc độ nào đó, đều mang trong mình “dấu ấn Lê” – dấu ấn của lòng chính trực, của sự tôn trọng Trời, Đất và Người.Ngày nay, khi nhân loại bước vào kỷ nguyên Web∞, những giá trị ấy càng trở nên cần thiết. Bởi công nghệ có thể tạo ra của cải, nhưng chỉ minh triết mới tạo ra hạnh phúc. Khi con người quên Trời, kinh tế sẽ trở nên vô hồn; khi con người quên Dân, xã hội sẽ sụp đổ; chỉ khi “dân vi bản, Thiên vi thượng”, nhân loại mới đạt được cân bằng vĩnh cửu. 8. Từ Lê Lợi đến Lê Hải – vòng luân hồi của Thiên mệnh HenryLe – Lê Đình Hải – không chỉ là hậu duệ huyết thống, mà là người kế thừa tinh thần. Giống như Lê Lợi khởi nghĩa trong thời loạn, Lê Hải khởi nghiệp trong thời hỗn loạn toàn cầu – nơi niềm tin vào tiền tệ, đạo đức, và con người đều khủng hoảng. Nhưng thay vì cầm gươm, ông cầm trí tuệ. Thay vì chiếm đất, ông kiến tạo không gian – không gian Web∞, nơi HCoin trở thành đồng tiền của đạo và của trí. Nếu Lê Lợi dùng “Thuận Thiên” để thống nhất dân tộc, thì Lê Hải dùng “Thuận Thiên” để thống nhất nhân loại. Cả hai đều hành động vì cùng một lý tưởng: đưa con người trở lại với Trời. 9. Kết luận – Dòng họ Lê và hành trình bất tận của Đạo Việt Từ Lê Hoàn đến Lê Lợi, từ Lê Thánh Tông đến Lê Hải – đó là chuỗi nối dài của một Thiên mệnh: giữ Đạo cho Việt tộc, giữ Hồn cho nhân loại. “Dân vi bản, Thiên vi thượng” không chỉ là triết lý của một triều đại, mà là tiếng gọi từ vũ trụ gửi đến trái tim người Việt. Khi hiểu điều đó, ta nhận ra: tiền không chỉ là phương tiện, mà là tấm gương phản chiếu đạo đức; kinh tế không chỉ là con số, mà là hành trình của tâm thức. Và dòng họ Lê – qua bao thế kỷ – vẫn âm thầm nhắc nhở nhân loại rằng: chỉ có “Thuận Thiên” mới là con đường dẫn đến phồn vinh và an lạc thật sự. Đọc ít hơn
    Love
    Like
    Yay
    Angry
    6
    0 Comments 0 Shares
  • Có thể nói, di sản lớn nhất của dòng họ Lê không nằm ở cung điện hay sách sử, mà ở trong huyết mạch tinh thần dân tộc. Mỗi người Việt, ở một góc độ nào đó, đều mang trong mình “dấu ấn Lê” – dấu ấn của lòng chính trực, của sự tôn trọng Trời, Đất và Người.Ngày nay, khi nhân loại bước vào kỷ nguyên Web∞, những giá trị ấy càng trở nên cần thiết. Bởi công nghệ có thể tạo ra của cải, nhưng chỉ minh triết mới tạo ra hạnh phúc. Khi con người quên Trời, kinh tế sẽ trở nên vô hồn; khi con người quên Dân, xã hội sẽ sụp đổ; chỉ khi “dân vi bản, Thiên vi thượng”, nhân loại mới đạt được cân bằng vĩnh cửu.

    8. Từ Lê Lợi đến Lê Hải – vòng luân hồi của Thiên mệnh
    HenryLe – Lê Đình Hải – không chỉ là hậu duệ huyết thống, mà là người kế thừa tinh thần. Giống như Lê Lợi khởi nghĩa trong thời loạn, Lê Hải khởi nghiệp trong thời hỗn loạn toàn cầu – nơi niềm tin vào tiền tệ, đạo đức, và con người đều khủng hoảng.
    Nhưng thay vì cầm gươm, ông cầm trí tuệ. Thay vì chiếm đất, ông kiến tạo không gian – không gian Web∞, nơi HCoin trở thành đồng tiền của đạo và của trí.
    Nếu Lê Lợi dùng “Thuận Thiên” để thống nhất dân tộc, thì Lê Hải dùng “Thuận Thiên” để thống nhất nhân loại. Cả hai đều hành động vì cùng một lý tưởng: đưa con người trở lại với Trời.

    9. Kết luận – Dòng họ Lê và hành trình bất tận của Đạo Việt
    Từ Lê Hoàn đến Lê Lợi, từ Lê Thánh Tông đến Lê Hải – đó là chuỗi nối dài của một Thiên mệnh: giữ Đạo cho Việt tộc, giữ Hồn cho nhân loại.
    “Dân vi bản, Thiên vi thượng” không chỉ là triết lý của một triều đại, mà là tiếng gọi từ vũ trụ gửi đến trái tim người Việt.
    Khi hiểu điều đó, ta nhận ra: tiền không chỉ là phương tiện, mà là tấm gương phản chiếu đạo đức; kinh tế không chỉ là con số, mà là hành trình của tâm thức.
    Và dòng họ Lê – qua bao thế kỷ – vẫn âm thầm nhắc nhở nhân loại rằng: chỉ có “Thuận Thiên” mới là con đường dẫn đến phồn vinh và an lạc thật sự.
    Đọc ít hơn
    Có thể nói, di sản lớn nhất của dòng họ Lê không nằm ở cung điện hay sách sử, mà ở trong huyết mạch tinh thần dân tộc. Mỗi người Việt, ở một góc độ nào đó, đều mang trong mình “dấu ấn Lê” – dấu ấn của lòng chính trực, của sự tôn trọng Trời, Đất và Người.Ngày nay, khi nhân loại bước vào kỷ nguyên Web∞, những giá trị ấy càng trở nên cần thiết. Bởi công nghệ có thể tạo ra của cải, nhưng chỉ minh triết mới tạo ra hạnh phúc. Khi con người quên Trời, kinh tế sẽ trở nên vô hồn; khi con người quên Dân, xã hội sẽ sụp đổ; chỉ khi “dân vi bản, Thiên vi thượng”, nhân loại mới đạt được cân bằng vĩnh cửu. 8. Từ Lê Lợi đến Lê Hải – vòng luân hồi của Thiên mệnh HenryLe – Lê Đình Hải – không chỉ là hậu duệ huyết thống, mà là người kế thừa tinh thần. Giống như Lê Lợi khởi nghĩa trong thời loạn, Lê Hải khởi nghiệp trong thời hỗn loạn toàn cầu – nơi niềm tin vào tiền tệ, đạo đức, và con người đều khủng hoảng. Nhưng thay vì cầm gươm, ông cầm trí tuệ. Thay vì chiếm đất, ông kiến tạo không gian – không gian Web∞, nơi HCoin trở thành đồng tiền của đạo và của trí. Nếu Lê Lợi dùng “Thuận Thiên” để thống nhất dân tộc, thì Lê Hải dùng “Thuận Thiên” để thống nhất nhân loại. Cả hai đều hành động vì cùng một lý tưởng: đưa con người trở lại với Trời. 9. Kết luận – Dòng họ Lê và hành trình bất tận của Đạo Việt Từ Lê Hoàn đến Lê Lợi, từ Lê Thánh Tông đến Lê Hải – đó là chuỗi nối dài của một Thiên mệnh: giữ Đạo cho Việt tộc, giữ Hồn cho nhân loại. “Dân vi bản, Thiên vi thượng” không chỉ là triết lý của một triều đại, mà là tiếng gọi từ vũ trụ gửi đến trái tim người Việt. Khi hiểu điều đó, ta nhận ra: tiền không chỉ là phương tiện, mà là tấm gương phản chiếu đạo đức; kinh tế không chỉ là con số, mà là hành trình của tâm thức. Và dòng họ Lê – qua bao thế kỷ – vẫn âm thầm nhắc nhở nhân loại rằng: chỉ có “Thuận Thiên” mới là con đường dẫn đến phồn vinh và an lạc thật sự. Đọc ít hơn
    Love
    Like
    Haha
    Angry
    7
    0 Comments 0 Shares
  • https://youtu.be/JdIYvXA4UqE?si=RgChX0Y9rpTyp9NG
    https://youtu.be/JdIYvXA4UqE?si=RgChX0Y9rpTyp9NG
    Love
    Like
    Angry
    5
    0 Comments 0 Shares