• HNI 17/12 - B3
    BÀI THƠ CHƯƠNG 18 :
    KHI TÔN GIÁO TÁCH KHỎI BẢN CHẤT
    – NGUY CƠ MÊ TÍN HÓA
    Khi niềm tin rời xa trí tuệ,
    Thì sợ hãi lên ngôi làm chủ đường đi.
    Con người cầu xin thay vì chuyển hóa,
    Mua phước lành bằng lễ vật mê ly.
    Thần thánh bị kéo xuống làm công cụ,
    Phán số – đo mệnh – hứa hẹn đổi đời.
    Trong khi cội nguồn tôn giáo nhắc nhở:
    Hãy tự soi mình, đừng trốn trách nhiệm nơi Trời.
    Mê tín nở ra khi người ta khổ,
    Nhưng không được dẫn về tự do bên trong.
    Nghi lễ mất đi vai trò tỉnh thức,
    Chỉ còn hình thức nuôi dưỡng vô minh.
    Khi đạo bị dùng để gieo sợ hãi,
    Để kiểm soát lòng người bằng lời linh thiêng,
    Thì tôn giáo đã rời xa bản chất,
    Không còn là ánh sáng – chỉ là bóng đêm.
    Hãy trả tôn giáo về đúng vị trí ban đầu:
    Là con đường giúp người tỉnh – sáng – lành.
    Nơi không ai bán ơn hay cứu rỗi,
    Mà mỗi người tự bước ra khỏi mê mờ của chính mình.
    HNI 17/12 - B3 📕 📕 BÀI THƠ CHƯƠNG 18 : KHI TÔN GIÁO TÁCH KHỎI BẢN CHẤT – NGUY CƠ MÊ TÍN HÓA Khi niềm tin rời xa trí tuệ, Thì sợ hãi lên ngôi làm chủ đường đi. Con người cầu xin thay vì chuyển hóa, Mua phước lành bằng lễ vật mê ly. Thần thánh bị kéo xuống làm công cụ, Phán số – đo mệnh – hứa hẹn đổi đời. Trong khi cội nguồn tôn giáo nhắc nhở: Hãy tự soi mình, đừng trốn trách nhiệm nơi Trời. Mê tín nở ra khi người ta khổ, Nhưng không được dẫn về tự do bên trong. Nghi lễ mất đi vai trò tỉnh thức, Chỉ còn hình thức nuôi dưỡng vô minh. Khi đạo bị dùng để gieo sợ hãi, Để kiểm soát lòng người bằng lời linh thiêng, Thì tôn giáo đã rời xa bản chất, Không còn là ánh sáng – chỉ là bóng đêm. Hãy trả tôn giáo về đúng vị trí ban đầu: Là con đường giúp người tỉnh – sáng – lành. Nơi không ai bán ơn hay cứu rỗi, Mà mỗi người tự bước ra khỏi mê mờ của chính mình.
    Love
    Like
    Sad
    5
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 17/12 - B2
    BÀI THƠ CHƯƠNG 17 :
    VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO
    TRONG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI
    Khi luật pháp chưa kịp chạm đến lương tâm,
    Tôn giáo đã lên tiếng bằng điều thiện.
    Không phải để phán xét hay trừng phạt,
    Mà để nhắc con người nhớ cách làm người hiền.
    Từ giới răn, nhân ái đến từ bi,
    Đều gieo mầm tự chủ trong tâm thức.
    Dạy con người biết dừng trước ham muốn,
    Biết sống vì nhau, không chỉ vì mình.
    Tôn giáo không thay thế trách nhiệm cá nhân,
    Cũng không đứng trên đời sống thế tục.
    Nó giữ đạo đức khỏi trôi vào hư vô,
    Khi vật chất lên ngôi, lòng người rạn nứt.
    Nhưng khi đạo đức chỉ còn hình thức,
    Và niềm tin bị dùng để kiểm soát con người,
    Thì tôn giáo đánh mất vai trò khai sáng,
    Trở thành chiếc bóng của quyền lực mà thôi.
    Giá trị thật của tôn giáo nằm ở chỗ,
    Khi không cần ai nhìn vẫn sống ngay lành.
    Một xã hội mạnh không nhờ sợ hãi,
    Mà nhờ lương tâm thức tỉnh từ bên trong mỗi người.
    HNI 17/12 - B2 📕 📕 BÀI THƠ CHƯƠNG 17 : VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI Khi luật pháp chưa kịp chạm đến lương tâm, Tôn giáo đã lên tiếng bằng điều thiện. Không phải để phán xét hay trừng phạt, Mà để nhắc con người nhớ cách làm người hiền. Từ giới răn, nhân ái đến từ bi, Đều gieo mầm tự chủ trong tâm thức. Dạy con người biết dừng trước ham muốn, Biết sống vì nhau, không chỉ vì mình. Tôn giáo không thay thế trách nhiệm cá nhân, Cũng không đứng trên đời sống thế tục. Nó giữ đạo đức khỏi trôi vào hư vô, Khi vật chất lên ngôi, lòng người rạn nứt. Nhưng khi đạo đức chỉ còn hình thức, Và niềm tin bị dùng để kiểm soát con người, Thì tôn giáo đánh mất vai trò khai sáng, Trở thành chiếc bóng của quyền lực mà thôi. Giá trị thật của tôn giáo nằm ở chỗ, Khi không cần ai nhìn vẫn sống ngay lành. Một xã hội mạnh không nhờ sợ hãi, Mà nhờ lương tâm thức tỉnh từ bên trong mỗi người.
    Love
    Like
    4
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 17/12 - B1
    BÀI THƠ CHƯƠNG 19 :
    KHAI MINH TÂM LINH
    – NGHỊCH LÝ GIỮA HÌNH TƯỚNG VÀ CHÂN LÝ
    Hình tướng sinh ra để chỉ đường,
    Nhưng chân lý thì không có dáng hình.
    Ngón tay giơ lên hướng về mặt trăng,
    Không phải để con người thờ phụng ngón tay mình.
    Khi tâm còn non, cần khuôn và nếp,
    Cần biểu tượng để học cách quay về.
    Nhưng nếu dừng lại nơi hình tướng,
    Thì cả đời đứng trước cửa mà chưa hề đi mê.
    Chân lý không nằm trong lời định nghĩa,
    Cũng chẳng trú trong tượng thờ hay kinh văn.
    Nó hiện ra khi tâm người lắng lại,
    Và sự thật tự nói bằng im lặng sâu thẳm.
    Nghịch lý của con đường tâm linh,
    Là phải mượn hình để vượt khỏi hình.
    Phải đi qua niềm tin để thấy rõ,
    Rằng không niềm tin nào thay được chính mình.
    Khai minh không phải là có thêm tri thức,
    Mà là buông xuống những gì che mờ.
    Khi hình tướng hoàn thành vai trò của nó,
    Chân lý hiển lộ – giản dị – không ngờ.
    HNI 17/12 - B1 📕 📕 BÀI THƠ CHƯƠNG 19 : KHAI MINH TÂM LINH – NGHỊCH LÝ GIỮA HÌNH TƯỚNG VÀ CHÂN LÝ Hình tướng sinh ra để chỉ đường, Nhưng chân lý thì không có dáng hình. Ngón tay giơ lên hướng về mặt trăng, Không phải để con người thờ phụng ngón tay mình. Khi tâm còn non, cần khuôn và nếp, Cần biểu tượng để học cách quay về. Nhưng nếu dừng lại nơi hình tướng, Thì cả đời đứng trước cửa mà chưa hề đi mê. Chân lý không nằm trong lời định nghĩa, Cũng chẳng trú trong tượng thờ hay kinh văn. Nó hiện ra khi tâm người lắng lại, Và sự thật tự nói bằng im lặng sâu thẳm. Nghịch lý của con đường tâm linh, Là phải mượn hình để vượt khỏi hình. Phải đi qua niềm tin để thấy rõ, Rằng không niềm tin nào thay được chính mình. Khai minh không phải là có thêm tri thức, Mà là buông xuống những gì che mờ. Khi hình tướng hoàn thành vai trò của nó, Chân lý hiển lộ – giản dị – không ngờ.
    Love
    Like
    3
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 17/12 - B17 CỘNG ĐỒNG HNI BIẾT ƠN CHỦ TỊCH LÊ ĐÌNH HẢI

    Cộng đồng HNI hôm nay cùng chung một nhịp tim biết ơn khi nhắc đến Chủ tịch Lê Đình Hải – người đã không chỉ khởi xướng một tổ chức, mà còn thắp lên một tinh thần sống, một hướng đi đầy nhân văn và khai sáng cho cộng đồng. Sự hiện diện và dẫn dắt của ông là điểm tựa vững chắc, giúp HNI hình thành, lớn mạnh và giữ vững giá trị cốt lõi giữa nhiều biến động của thời đại.

    Chủ tịch Lê Đình Hải được cộng đồng trân quý không chỉ bởi tầm nhìn chiến lược, mà còn bởi đạo đức lãnh đạo và niềm tin ông trao cho từng thành viên. Ông luôn nhìn thấy tiềm năng trong mỗi con người, khích lệ sự tự chủ, tinh thần trách nhiệm và khả năng phụng sự cộng đồng. Với ông, thành công không đo bằng lợi ích ngắn hạn, mà bằng giá trị bền vững được tạo ra cho xã hội và cho thế hệ mai sau.

    Trong hành trình xây dựng HNI, Chủ tịch Lê Đình Hải đã kiên định với con đường minh bạch, chính trực và yêu thương. Ông chọn dẫn dắt bằng hành động thay vì lời nói, bằng sự hy sinh thầm lặng hơn là vinh danh cá nhân. Chính điều đó đã tạo nên một văn hóa HNI đoàn kết, tin cậy và không ngừng lan tỏa năng lượng tích cực.

    Cộng đồng HNI biết ơn ông vì đã mở ra một không gian nơi mỗi người được là chính mình, được học hỏi, được cống hiến và được lớn lên cả về trí tuệ lẫn tâm thức. Biết ơn vì ông đã gieo hạt giống niềm tin, để hôm nay HNI trở thành một cộng đồng không chỉ mạnh về tổ chức, mà sâu về giá trị.

    Lòng biết ơn này không chỉ là lời tri ân, mà là cam kết của mỗi thành viên HNI: tiếp tục sống, làm việc và phụng sự đúng với tinh thần mà Chủ tịch Lê Đình Hải đã dày công vun đắp.
    HNI 17/12 - B17 🌟 CỘNG ĐỒNG HNI BIẾT ƠN CHỦ TỊCH LÊ ĐÌNH HẢI Cộng đồng HNI hôm nay cùng chung một nhịp tim biết ơn khi nhắc đến Chủ tịch Lê Đình Hải – người đã không chỉ khởi xướng một tổ chức, mà còn thắp lên một tinh thần sống, một hướng đi đầy nhân văn và khai sáng cho cộng đồng. Sự hiện diện và dẫn dắt của ông là điểm tựa vững chắc, giúp HNI hình thành, lớn mạnh và giữ vững giá trị cốt lõi giữa nhiều biến động của thời đại. Chủ tịch Lê Đình Hải được cộng đồng trân quý không chỉ bởi tầm nhìn chiến lược, mà còn bởi đạo đức lãnh đạo và niềm tin ông trao cho từng thành viên. Ông luôn nhìn thấy tiềm năng trong mỗi con người, khích lệ sự tự chủ, tinh thần trách nhiệm và khả năng phụng sự cộng đồng. Với ông, thành công không đo bằng lợi ích ngắn hạn, mà bằng giá trị bền vững được tạo ra cho xã hội và cho thế hệ mai sau. Trong hành trình xây dựng HNI, Chủ tịch Lê Đình Hải đã kiên định với con đường minh bạch, chính trực và yêu thương. Ông chọn dẫn dắt bằng hành động thay vì lời nói, bằng sự hy sinh thầm lặng hơn là vinh danh cá nhân. Chính điều đó đã tạo nên một văn hóa HNI đoàn kết, tin cậy và không ngừng lan tỏa năng lượng tích cực. Cộng đồng HNI biết ơn ông vì đã mở ra một không gian nơi mỗi người được là chính mình, được học hỏi, được cống hiến và được lớn lên cả về trí tuệ lẫn tâm thức. Biết ơn vì ông đã gieo hạt giống niềm tin, để hôm nay HNI trở thành một cộng đồng không chỉ mạnh về tổ chức, mà sâu về giá trị. Lòng biết ơn này không chỉ là lời tri ân, mà là cam kết của mỗi thành viên HNI: tiếp tục sống, làm việc và phụng sự đúng với tinh thần mà Chủ tịch Lê Đình Hải đã dày công vun đắp.
    Love
    Like
    4
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 17/12:
    CHƯƠNG 2: ĐẠO VÀ LUẬT: SỰ VẬN HÀNH VÔ HÌNH TẠO NÊN TRẬT TỰ HỮU HÌNH
    Con người sống trong một thế giới hữu hình – nơi mọi sự vật, hiện tượng đều có hình tướng, có tên gọi, có ranh giới, có sự phân định rõ ràng. Nhưng điều vận hành, duy trì và kết nối những hình tướng ấy lại không nằm trong thế giới mà mắt thường có thể nhìn thấy. Cái mà con người chạm được chỉ là phần nổi của tảng băng vũ trụ; còn phần chìm – nơi chứa đựng mọi nguyên lý, mọi chiều rung động, mọi lực vận hành – chính là Đạo và Luật.
    Nói đến Đạo là nói đến nguồn gốc vận hành tối giản mà toàn năng; nói đến Luật là nói đến cách thức vận hành nhất quán, trật tự và không thiên lệch. Nếu Đạo là bản thể của trật tự vũ trụ, thì Luật là cơ chế gìn giữ và biểu hiện bản thể ấy trong muôn mặt đời sống. Khi hiểu được Đạo, con người nhìn thấu bản chất mọi sự. Khi hiểu được Luật, con người biết cách hành xử thuận với bản chất ấy để đạt an nhiên, an lạc và thịnh vượng.
    1. Đạo – nguyên lý gốc của sự sống
    Từ thời cổ đại, khi chưa có sách vở, chưa có khoa học, chưa có những hệ thống tư tưởng phức tạp, con người đã cảm nhận rằng có một “cái gì đó” vận hành thế giới: bầu trời xoay chuyển, mặt trời mọc lặn, nước chảy về chỗ trũng, cây cối lớn lên, mùa màng nở rộ, con người sinh ra – già đi – chết đi… Tất cả diễn ra một cách tự nhiên, không cần mệnh lệnh, không cần ai điều khiển. Cái “tự nhiên” ấy chính là biểu hiện của Đạo.
    Đạo không có hình, không có tiếng, không có màu sắc, không thuộc về một tôn giáo, không phục vụ cho một niềm tin. Đạo đơn giản là nguyên lý gốc của mọi vận hành.
    Như dòng điện chạy trong dây dẫn: ta không thấy điện, nhưng ta thấy bóng đèn sáng. Đạo cũng vậy: ta không nhìn thấy nó, nhưng ta thấy tất cả những gì nó tạo ra.
    Trong tư tưởng của những bậc hiền triết, Đạo là:
    Nguồn của nguồn, là nơi mọi sự sinh ra và trở về.
    Tính trật tự tự nhiên của vũ trụ.
    Dòng chảy cân bằng luôn hướng đến sự điều hòa.
    Không mang thành kiến, không thiên vị, không cảm xúc.
    Không hình tướng, nhưng có thể cảm được qua sự an yên và sự thật.
    HNI 17/12: 🌺CHƯƠNG 2: ĐẠO VÀ LUẬT: SỰ VẬN HÀNH VÔ HÌNH TẠO NÊN TRẬT TỰ HỮU HÌNH Con người sống trong một thế giới hữu hình – nơi mọi sự vật, hiện tượng đều có hình tướng, có tên gọi, có ranh giới, có sự phân định rõ ràng. Nhưng điều vận hành, duy trì và kết nối những hình tướng ấy lại không nằm trong thế giới mà mắt thường có thể nhìn thấy. Cái mà con người chạm được chỉ là phần nổi của tảng băng vũ trụ; còn phần chìm – nơi chứa đựng mọi nguyên lý, mọi chiều rung động, mọi lực vận hành – chính là Đạo và Luật. Nói đến Đạo là nói đến nguồn gốc vận hành tối giản mà toàn năng; nói đến Luật là nói đến cách thức vận hành nhất quán, trật tự và không thiên lệch. Nếu Đạo là bản thể của trật tự vũ trụ, thì Luật là cơ chế gìn giữ và biểu hiện bản thể ấy trong muôn mặt đời sống. Khi hiểu được Đạo, con người nhìn thấu bản chất mọi sự. Khi hiểu được Luật, con người biết cách hành xử thuận với bản chất ấy để đạt an nhiên, an lạc và thịnh vượng. 1. Đạo – nguyên lý gốc của sự sống Từ thời cổ đại, khi chưa có sách vở, chưa có khoa học, chưa có những hệ thống tư tưởng phức tạp, con người đã cảm nhận rằng có một “cái gì đó” vận hành thế giới: bầu trời xoay chuyển, mặt trời mọc lặn, nước chảy về chỗ trũng, cây cối lớn lên, mùa màng nở rộ, con người sinh ra – già đi – chết đi… Tất cả diễn ra một cách tự nhiên, không cần mệnh lệnh, không cần ai điều khiển. Cái “tự nhiên” ấy chính là biểu hiện của Đạo. Đạo không có hình, không có tiếng, không có màu sắc, không thuộc về một tôn giáo, không phục vụ cho một niềm tin. Đạo đơn giản là nguyên lý gốc của mọi vận hành. Như dòng điện chạy trong dây dẫn: ta không thấy điện, nhưng ta thấy bóng đèn sáng. Đạo cũng vậy: ta không nhìn thấy nó, nhưng ta thấy tất cả những gì nó tạo ra. Trong tư tưởng của những bậc hiền triết, Đạo là: Nguồn của nguồn, là nơi mọi sự sinh ra và trở về. Tính trật tự tự nhiên của vũ trụ. Dòng chảy cân bằng luôn hướng đến sự điều hòa. Không mang thành kiến, không thiên vị, không cảm xúc. Không hình tướng, nhưng có thể cảm được qua sự an yên và sự thật.
    Like
    Love
    4
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 17/12:
    CHƯƠNG 2: ĐẠO VÀ LUẬT: SỰ VẬN HÀNH VÔ HÌNH TẠO NÊN TRẬT TỰ HỮU HÌNH
    Con người sống trong một thế giới hữu hình – nơi mọi sự vật, hiện tượng đều có hình tướng, có tên gọi, có ranh giới, có sự phân định rõ ràng. Nhưng điều vận hành, duy trì và kết nối những hình tướng ấy lại không nằm trong thế giới mà mắt thường có thể nhìn thấy. Cái mà con người chạm được chỉ là phần nổi của tảng băng vũ trụ; còn phần chìm – nơi chứa đựng mọi nguyên lý, mọi chiều rung động, mọi lực vận hành – chính là Đạo và Luật.
    Nói đến Đạo là nói đến nguồn gốc vận hành tối giản mà toàn năng; nói đến Luật là nói đến cách thức vận hành nhất quán, trật tự và không thiên lệch. Nếu Đạo là bản thể của trật tự vũ trụ, thì Luật là cơ chế gìn giữ và biểu hiện bản thể ấy trong muôn mặt đời sống. Khi hiểu được Đạo, con người nhìn thấu bản chất mọi sự. Khi hiểu được Luật, con người biết cách hành xử thuận với bản chất ấy để đạt an nhiên, an lạc và thịnh vượng.
    1. Đạo – nguyên lý gốc của sự sống
    Từ thời cổ đại, khi chưa có sách vở, chưa có khoa học, chưa có những hệ thống tư tưởng phức tạp, con người đã cảm nhận rằng có một “cái gì đó” vận hành thế giới: bầu trời xoay chuyển, mặt trời mọc lặn, nước chảy về chỗ trũng, cây cối lớn lên, mùa màng nở rộ, con người sinh ra – già đi – chết đi… Tất cả diễn ra một cách tự nhiên, không cần mệnh lệnh, không cần ai điều khiển. Cái “tự nhiên” ấy chính là biểu hiện của Đạo.
    Đạo không có hình, không có tiếng, không có màu sắc, không thuộc về một tôn giáo, không phục vụ cho một niềm tin. Đạo đơn giản là nguyên lý gốc của mọi vận hành.
    Như dòng điện chạy trong dây dẫn: ta không thấy điện, nhưng ta thấy bóng đèn sáng. Đạo cũng vậy: ta không nhìn thấy nó, nhưng ta thấy tất cả những gì nó tạo ra.
    Trong tư tưởng của những bậc hiền triết, Đạo là:
    Nguồn của nguồn, là nơi mọi sự sinh ra và trở về.
    Tính trật tự tự nhiên của vũ trụ.
    Dòng chảy cân bằng luôn hướng đến sự điều hòa.
    Không mang thành kiến, không thiên vị, không cảm xúc.
    Không hình tướng, nhưng có thể cảm được qua sự an yên và sự thật.
    Khi con người sống thuận Đạo, họ cảm nhận sự nhẹ nhàng, rõ ràng, mọi thứ đến và đi đúng lúc. Khi con người nghịch Đạo, họ cảm thấy rối rắm, bế tắc, xung đột và tổn hao năng lượng.
    Đạo không trừng phạt ai. Chỉ có sự không hiểu Đạomới khiến con người tự trừng phạt mình bằng sự rối loạn nội tâm và lựa chọn sai lầm.
    2. Luật – cơ chế biểu hiện của Đạo
    Nếu Đạo là gốc, thì Luật là thân và cành. Đạo không bao giờ tự kể về mình, nhưng Luật chính là ngôn ngữ mô tả Đạo. Luật không phải là luật pháp do con người viết ra, mà là:
    Luật của vũ trụ
    Luật của năng lượng
    Luật của sự vận hành tự nhiên
    Luật của nhân quả – cộng hưởng – cân bằng – tiến hóa
    Những Luật này không ai tạo ra, cũng không ai có thể phá vỡ. Con người chỉ có thể nhận biết hoặc không nhận biết, thuận theo hoặc đi ngược lại.
    Luật không quan tâm bạn là ai.
    Bạn giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, tin hay không tin vào nó, Luật vẫn vận hành.
    Giống như trọng lực: bạn không nhìn thấy, không chạm được, nhưng bạn buộc phải sống trong nó. Nếu bạn đứng trên cao và bước xuống, trọng lực kéo bạn rơi – không phải vì nó trừng phạt bạn, mà đơn giản vì đó là cách nó vận hành.
    Trong đời sống tinh thần và tâm linh cũng vậy. Những Luật vô hình tạo nên mọi kết quả hữu hình.
    3. Đạo và Luật: Hai mặt của một thực tại
    Đạo là nền tảng vô hình.
    Luật là hình thức vận hành của nền tảng ấy.
    Không có Đạo thì không có Luật; không có Luật thì Đạo sẽ không được biểu hiện ra ngoài để con người cảm nhận. Vì vậy, nói về Đạo mà không nói về Luật thì giống như nhìn một dòng sông mà không biết dòng chảy của nó đi đâu; nói về Luật mà không hiểu Đạo thì giống như học cách chèo thuyền mà không biết vì sao nước lại chảy.
    Đạo tinh giản.
    Luật nhất quán.
    Sự sống là sự phối hợp hài hòa của cả hai.
    4. Luật vô hình – Kết quả hữu hình
    Trật tự mà chúng ta nhìn thấy trong thế giới vật chất không tự nhiên xuất hiện. Nó là kết quả của những vận hành vô hình:
    Luật cộng hưởng khiến người tích cực thu hút điều tốt lành.
    Luật nhân quả khiến hành động tạo ra kết quả tương xứng.
    Luật cân bằng khiến mọi thái cực đều phải hồi về trung dung.
    Luật tiến hóa khiến linh hồn và trí tuệ luôn hướng đến sự hoàn thiện.
    HNI 17/12: 🌺CHƯƠNG 2: ĐẠO VÀ LUẬT: SỰ VẬN HÀNH VÔ HÌNH TẠO NÊN TRẬT TỰ HỮU HÌNH Con người sống trong một thế giới hữu hình – nơi mọi sự vật, hiện tượng đều có hình tướng, có tên gọi, có ranh giới, có sự phân định rõ ràng. Nhưng điều vận hành, duy trì và kết nối những hình tướng ấy lại không nằm trong thế giới mà mắt thường có thể nhìn thấy. Cái mà con người chạm được chỉ là phần nổi của tảng băng vũ trụ; còn phần chìm – nơi chứa đựng mọi nguyên lý, mọi chiều rung động, mọi lực vận hành – chính là Đạo và Luật. Nói đến Đạo là nói đến nguồn gốc vận hành tối giản mà toàn năng; nói đến Luật là nói đến cách thức vận hành nhất quán, trật tự và không thiên lệch. Nếu Đạo là bản thể của trật tự vũ trụ, thì Luật là cơ chế gìn giữ và biểu hiện bản thể ấy trong muôn mặt đời sống. Khi hiểu được Đạo, con người nhìn thấu bản chất mọi sự. Khi hiểu được Luật, con người biết cách hành xử thuận với bản chất ấy để đạt an nhiên, an lạc và thịnh vượng. 1. Đạo – nguyên lý gốc của sự sống Từ thời cổ đại, khi chưa có sách vở, chưa có khoa học, chưa có những hệ thống tư tưởng phức tạp, con người đã cảm nhận rằng có một “cái gì đó” vận hành thế giới: bầu trời xoay chuyển, mặt trời mọc lặn, nước chảy về chỗ trũng, cây cối lớn lên, mùa màng nở rộ, con người sinh ra – già đi – chết đi… Tất cả diễn ra một cách tự nhiên, không cần mệnh lệnh, không cần ai điều khiển. Cái “tự nhiên” ấy chính là biểu hiện của Đạo. Đạo không có hình, không có tiếng, không có màu sắc, không thuộc về một tôn giáo, không phục vụ cho một niềm tin. Đạo đơn giản là nguyên lý gốc của mọi vận hành. Như dòng điện chạy trong dây dẫn: ta không thấy điện, nhưng ta thấy bóng đèn sáng. Đạo cũng vậy: ta không nhìn thấy nó, nhưng ta thấy tất cả những gì nó tạo ra. Trong tư tưởng của những bậc hiền triết, Đạo là: Nguồn của nguồn, là nơi mọi sự sinh ra và trở về. Tính trật tự tự nhiên của vũ trụ. Dòng chảy cân bằng luôn hướng đến sự điều hòa. Không mang thành kiến, không thiên vị, không cảm xúc. Không hình tướng, nhưng có thể cảm được qua sự an yên và sự thật. Khi con người sống thuận Đạo, họ cảm nhận sự nhẹ nhàng, rõ ràng, mọi thứ đến và đi đúng lúc. Khi con người nghịch Đạo, họ cảm thấy rối rắm, bế tắc, xung đột và tổn hao năng lượng. Đạo không trừng phạt ai. Chỉ có sự không hiểu Đạomới khiến con người tự trừng phạt mình bằng sự rối loạn nội tâm và lựa chọn sai lầm. 2. Luật – cơ chế biểu hiện của Đạo Nếu Đạo là gốc, thì Luật là thân và cành. Đạo không bao giờ tự kể về mình, nhưng Luật chính là ngôn ngữ mô tả Đạo. Luật không phải là luật pháp do con người viết ra, mà là: Luật của vũ trụ Luật của năng lượng Luật của sự vận hành tự nhiên Luật của nhân quả – cộng hưởng – cân bằng – tiến hóa Những Luật này không ai tạo ra, cũng không ai có thể phá vỡ. Con người chỉ có thể nhận biết hoặc không nhận biết, thuận theo hoặc đi ngược lại. Luật không quan tâm bạn là ai. Bạn giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, tin hay không tin vào nó, Luật vẫn vận hành. Giống như trọng lực: bạn không nhìn thấy, không chạm được, nhưng bạn buộc phải sống trong nó. Nếu bạn đứng trên cao và bước xuống, trọng lực kéo bạn rơi – không phải vì nó trừng phạt bạn, mà đơn giản vì đó là cách nó vận hành. Trong đời sống tinh thần và tâm linh cũng vậy. Những Luật vô hình tạo nên mọi kết quả hữu hình. 3. Đạo và Luật: Hai mặt của một thực tại Đạo là nền tảng vô hình. Luật là hình thức vận hành của nền tảng ấy. Không có Đạo thì không có Luật; không có Luật thì Đạo sẽ không được biểu hiện ra ngoài để con người cảm nhận. Vì vậy, nói về Đạo mà không nói về Luật thì giống như nhìn một dòng sông mà không biết dòng chảy của nó đi đâu; nói về Luật mà không hiểu Đạo thì giống như học cách chèo thuyền mà không biết vì sao nước lại chảy. Đạo tinh giản. Luật nhất quán. Sự sống là sự phối hợp hài hòa của cả hai. 4. Luật vô hình – Kết quả hữu hình Trật tự mà chúng ta nhìn thấy trong thế giới vật chất không tự nhiên xuất hiện. Nó là kết quả của những vận hành vô hình: Luật cộng hưởng khiến người tích cực thu hút điều tốt lành. Luật nhân quả khiến hành động tạo ra kết quả tương xứng. Luật cân bằng khiến mọi thái cực đều phải hồi về trung dung. Luật tiến hóa khiến linh hồn và trí tuệ luôn hướng đến sự hoàn thiện.
    Love
    Like
    5
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • https://youtu.be/YSbGd2W9DSQ?si=YuiY46TR_k3qC8No
    https://youtu.be/YSbGd2W9DSQ?si=YuiY46TR_k3qC8No
    Love
    Like
    5
    69 Bình luận 0 Chia sẽ
  • https://youtu.be/8zfwBboBACM?si=BQ8YM436fePjP8eR
    https://youtu.be/8zfwBboBACM?si=BQ8YM436fePjP8eR
    Like
    Love
    5
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 17-12 - B18
    **CHƯƠNG 2: TỪ THƯƠNG NHÂN ĐẾN DOANH NHÂN: BƯỚC CHUYỂN TỪ LỢI SANG NGHĨA**

    Lịch sử kinh doanh của nhân loại bắt đầu từ thương nhân. Thương nhân xuất hiện khi con người biết trao đổi: đổi vật lấy vật, đổi công lấy của, đổi thời gian lấy sinh tồn. Ở giai đoạn đó, mục tiêu rất rõ ràng: lợi. Có lợi thì làm, không lợi thì dừng. Không ai đòi hỏi thương nhân phải gánh vác trách nhiệm xã hội, bởi bản thân họ cũng đang vật lộn để tồn tại.

    Nhưng xã hội không đứng yên. Khi của cải tích lũy đủ lớn, khi ảnh hưởng của một cá nhân vượt khỏi phạm vi gia đình hay làng xóm, khi một quyết định kinh doanh có thể tác động đến sinh kế của hàng nghìn người – thì vai trò thương nhân không còn đủ. Lúc ấy, xã hội cần một hình mẫu mới: doanh nhân.

    Sự khác biệt giữa thương nhân và doanh nhân không nằm ở quy mô vốn, không nằm ở số lượng nhân sự, càng không nằm ở danh xưng. Sự khác biệt nằm ở ý thức trách nhiệm. Thương nhân hỏi: “Việc này có lợi cho tôi không?”
    Doanh nhân hỏi thêm một câu nữa: “Việc này có đúng không?”

    Bước chuyển từ lợi sang nghĩa không phải là sự phủ nhận lợi nhuận. Ngược lại, đó là sự nâng cấp mục tiêu của lợi nhuận. Lợi không còn là đích đến cuối cùng, mà trở thành phương tiện để thực hiện những giá trị lớn hơn: tạo việc làm, nâng chuẩn sống, xây dựng niềm tin và đóng góp cho sự ổn định của xã hội.

    Trong thời đại mới, sự nhầm lẫn giữa thương nhân và doanh nhân diễn ra phổ biến. Nhiều người có doanh thu lớn, công ty lớn, truyền thông mạnh, nhưng vẫn vận hành tư duy thương nhân thuần túy: tối đa hóa lợi ích cá nhân trong thời gian ngắn, bất chấp hệ quả dài hạn. Khi gặp khủng hoảng, họ rút lui. Khi niềm tin sụp đổ, họ đổi tên. Khi mô hình cũ bị phơi bày, họ tạo vỏ bọc mới.

    Doanh nhân thật thì khác. Họ không thể biến mất. Vì phía sau họ là nhân sự, là đối tác, là khách hàng, là cộng đồng. Doanh nghiệp đối với họ không chỉ là tài sản, mà là cam kết.

    Chữ “Nghĩa” trong kinh doanh không phải là sự hy sinh mù quáng. Nghĩa là biết đặt mình vào mối quan hệ hai chiều với xã hội. Là hiểu rằng: không có lợi ích cá nhân nào tồn tại bền vững nếu tách rời lợi ích cộng đồng. Nghĩa là chấp nhận tăng trưởng chậm hơn để không phải trả giá bằng niềm tin.

    Trong văn hóa Á Đông, “Nghĩa” luôn đi cùng “Lợi”. Lợi mà không có Nghĩa thì sinh loạn. Nghĩa mà không có Lợi thì không tồn tại được. Doanh nhân minh triết là người biết cân bằng hai yếu tố đó trong từng quyết định.

    HNI xác định rất rõ: người bước vào cộng đồng này phải tự hỏi mình đã sẵn sàng rời bỏ tư duy thương nhân thuần túy hay chưa. Không ai bị ép buộc phải trở thành doanh nhân có Đạo. Nhưng một khi đã khoác lên mình danh xưng HNI, thì không thể chỉ chạy theo lợi ích cá nhân mà bỏ mặc hệ quả.

    Bước chuyển từ thương nhân sang doanh nhân thường đi kèm với đau đớn. Đó là lúc bạn từ chối một cơ hội lợi nhuận lớn vì nó gây tổn hại cho người khác. Đó là lúc bạn minh bạch hóa thông tin dù biết rằng điều đó có thể làm doanh thu sụt giảm. Đó là lúc bạn chịu trách nhiệm thay vì đổ lỗi cho thị trường, nhân viên hay hoàn cảnh.

    Nhưng chính trong những khoảnh khắc đó, một doanh nhân thực thụ được hình thành.

    Xã hội có thể sống với thương nhân. Nhưng xã hội chỉ phát triển bền vững với doanh nhân. Khi doanh nhân đủ nhiều, luật pháp trở nên nhẹ nhàng hơn, chi phí giám sát giảm xuống, và niềm tin được tái lập. Ngược lại, khi thương nhân chiếm ưu thế, xã hội phải dựng lên ngày càng nhiều rào chắn, quy định, chế tài – nhưng vẫn không ngăn được sự xói mòn từ bên trong.

    Chuyển từ lợi sang nghĩa không phải là một sự kiện, mà là một quá trình tự rèn luyện liên tục. Mỗi ngày, doanh nhân phải đối diện với câu hỏi: “Nếu ai cũng làm như mình, xã hội này sẽ đi về đâu?” Câu hỏi đó chính là Đạo.

    HNI không lý tưởng hóa doanh nhân. Chúng tôi hiểu rõ rằng doanh nhân cũng là con người – có tham vọng, có sợ hãi, có sai lầm. Nhưng điều làm nên sự khác biệt là khả năng tự sửa mình. Một cộng đồng doanh nhân có Đạo không phải là cộng đồng không phạm sai lầm, mà là cộng đồng không bao che cho sai lầm.

    Từ thương nhân đến doanh nhân là bước chuyển từ “tôi” sang “chúng ta”. Từ lợi ích cá nhân sang lợi ích hài hòa. Từ thành công ngắn hạn sang di sản dài hạn. Và bước chuyển đó, một khi đã diễn ra, sẽ không thể quay đầu.
    HNI 17-12 - B18 🌟 **CHƯƠNG 2: TỪ THƯƠNG NHÂN ĐẾN DOANH NHÂN: BƯỚC CHUYỂN TỪ LỢI SANG NGHĨA** Lịch sử kinh doanh của nhân loại bắt đầu từ thương nhân. Thương nhân xuất hiện khi con người biết trao đổi: đổi vật lấy vật, đổi công lấy của, đổi thời gian lấy sinh tồn. Ở giai đoạn đó, mục tiêu rất rõ ràng: lợi. Có lợi thì làm, không lợi thì dừng. Không ai đòi hỏi thương nhân phải gánh vác trách nhiệm xã hội, bởi bản thân họ cũng đang vật lộn để tồn tại. Nhưng xã hội không đứng yên. Khi của cải tích lũy đủ lớn, khi ảnh hưởng của một cá nhân vượt khỏi phạm vi gia đình hay làng xóm, khi một quyết định kinh doanh có thể tác động đến sinh kế của hàng nghìn người – thì vai trò thương nhân không còn đủ. Lúc ấy, xã hội cần một hình mẫu mới: doanh nhân. Sự khác biệt giữa thương nhân và doanh nhân không nằm ở quy mô vốn, không nằm ở số lượng nhân sự, càng không nằm ở danh xưng. Sự khác biệt nằm ở ý thức trách nhiệm. Thương nhân hỏi: “Việc này có lợi cho tôi không?” Doanh nhân hỏi thêm một câu nữa: “Việc này có đúng không?” Bước chuyển từ lợi sang nghĩa không phải là sự phủ nhận lợi nhuận. Ngược lại, đó là sự nâng cấp mục tiêu của lợi nhuận. Lợi không còn là đích đến cuối cùng, mà trở thành phương tiện để thực hiện những giá trị lớn hơn: tạo việc làm, nâng chuẩn sống, xây dựng niềm tin và đóng góp cho sự ổn định của xã hội. Trong thời đại mới, sự nhầm lẫn giữa thương nhân và doanh nhân diễn ra phổ biến. Nhiều người có doanh thu lớn, công ty lớn, truyền thông mạnh, nhưng vẫn vận hành tư duy thương nhân thuần túy: tối đa hóa lợi ích cá nhân trong thời gian ngắn, bất chấp hệ quả dài hạn. Khi gặp khủng hoảng, họ rút lui. Khi niềm tin sụp đổ, họ đổi tên. Khi mô hình cũ bị phơi bày, họ tạo vỏ bọc mới. Doanh nhân thật thì khác. Họ không thể biến mất. Vì phía sau họ là nhân sự, là đối tác, là khách hàng, là cộng đồng. Doanh nghiệp đối với họ không chỉ là tài sản, mà là cam kết. Chữ “Nghĩa” trong kinh doanh không phải là sự hy sinh mù quáng. Nghĩa là biết đặt mình vào mối quan hệ hai chiều với xã hội. Là hiểu rằng: không có lợi ích cá nhân nào tồn tại bền vững nếu tách rời lợi ích cộng đồng. Nghĩa là chấp nhận tăng trưởng chậm hơn để không phải trả giá bằng niềm tin. Trong văn hóa Á Đông, “Nghĩa” luôn đi cùng “Lợi”. Lợi mà không có Nghĩa thì sinh loạn. Nghĩa mà không có Lợi thì không tồn tại được. Doanh nhân minh triết là người biết cân bằng hai yếu tố đó trong từng quyết định. HNI xác định rất rõ: người bước vào cộng đồng này phải tự hỏi mình đã sẵn sàng rời bỏ tư duy thương nhân thuần túy hay chưa. Không ai bị ép buộc phải trở thành doanh nhân có Đạo. Nhưng một khi đã khoác lên mình danh xưng HNI, thì không thể chỉ chạy theo lợi ích cá nhân mà bỏ mặc hệ quả. Bước chuyển từ thương nhân sang doanh nhân thường đi kèm với đau đớn. Đó là lúc bạn từ chối một cơ hội lợi nhuận lớn vì nó gây tổn hại cho người khác. Đó là lúc bạn minh bạch hóa thông tin dù biết rằng điều đó có thể làm doanh thu sụt giảm. Đó là lúc bạn chịu trách nhiệm thay vì đổ lỗi cho thị trường, nhân viên hay hoàn cảnh. Nhưng chính trong những khoảnh khắc đó, một doanh nhân thực thụ được hình thành. Xã hội có thể sống với thương nhân. Nhưng xã hội chỉ phát triển bền vững với doanh nhân. Khi doanh nhân đủ nhiều, luật pháp trở nên nhẹ nhàng hơn, chi phí giám sát giảm xuống, và niềm tin được tái lập. Ngược lại, khi thương nhân chiếm ưu thế, xã hội phải dựng lên ngày càng nhiều rào chắn, quy định, chế tài – nhưng vẫn không ngăn được sự xói mòn từ bên trong. Chuyển từ lợi sang nghĩa không phải là một sự kiện, mà là một quá trình tự rèn luyện liên tục. Mỗi ngày, doanh nhân phải đối diện với câu hỏi: “Nếu ai cũng làm như mình, xã hội này sẽ đi về đâu?” Câu hỏi đó chính là Đạo. HNI không lý tưởng hóa doanh nhân. Chúng tôi hiểu rõ rằng doanh nhân cũng là con người – có tham vọng, có sợ hãi, có sai lầm. Nhưng điều làm nên sự khác biệt là khả năng tự sửa mình. Một cộng đồng doanh nhân có Đạo không phải là cộng đồng không phạm sai lầm, mà là cộng đồng không bao che cho sai lầm. Từ thương nhân đến doanh nhân là bước chuyển từ “tôi” sang “chúng ta”. Từ lợi ích cá nhân sang lợi ích hài hòa. Từ thành công ngắn hạn sang di sản dài hạn. Và bước chuyển đó, một khi đã diễn ra, sẽ không thể quay đầu.
    Love
    Like
    6
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 9/12:
    Bài thơ Chương 34: Hòa Hợp Tôn Giáo – Hòa Hợp Dân Tộc
    Trên dải đất nghìn năm chung vận nước,
    Bao đạo lành cùng hội tụ trời Nam.
    Tiếng chuông sớm hòa câu kinh buổi nguyện,
    Như nhắn rằng: lòng người hãy dịu an.
    Từ thánh thất đến ngôi chùa vách cổ,
    Từ giáo đường đến miếu nhỏ quê hương,
    Những niềm tin khác nhau nhưng một hướng:
    Vì nhân dân gìn giữ nếp yêu thương.
    Hòa hợp đạo không phải là đồng nhất,
    Mà tôn nhau trong sự khác biệt thiêng.
    Như trăm suối chảy về chung biển lớn,
    Góp màu xanh cho sóng nước bình yên.
    Dân tộc ấy vững vàng qua bão tố,
    Vì biết gom tất cả lại một nhà.
    Khi lòng đạo hòa vào lòng dân tộc,
    Đất nước thêm bền vững giữa phong ba.
    Hòa hợp đạo là mở lòng lắng nghe,
    Là hiểu nhau qua từng điều nhỏ nhặt.
    Là dựng nhịp cầu giữa bao nẻo đường tin,
    Để yêu thương không bao giờ đứt đoạn.
    Và khi ấy, muôn người chung hướng thiện,
    Ngọn lửa hòa bình sáng giữa trời mây.
    Dân tộc lớn không chỉ nhờ sức mạnh,
    Mà nhờ tình gắn kết tự ngàn xưa dựng xây.
    HNI 9/12: 📕Bài thơ Chương 34: Hòa Hợp Tôn Giáo – Hòa Hợp Dân Tộc Trên dải đất nghìn năm chung vận nước, Bao đạo lành cùng hội tụ trời Nam. Tiếng chuông sớm hòa câu kinh buổi nguyện, Như nhắn rằng: lòng người hãy dịu an. Từ thánh thất đến ngôi chùa vách cổ, Từ giáo đường đến miếu nhỏ quê hương, Những niềm tin khác nhau nhưng một hướng: Vì nhân dân gìn giữ nếp yêu thương. Hòa hợp đạo không phải là đồng nhất, Mà tôn nhau trong sự khác biệt thiêng. Như trăm suối chảy về chung biển lớn, Góp màu xanh cho sóng nước bình yên. Dân tộc ấy vững vàng qua bão tố, Vì biết gom tất cả lại một nhà. Khi lòng đạo hòa vào lòng dân tộc, Đất nước thêm bền vững giữa phong ba. Hòa hợp đạo là mở lòng lắng nghe, Là hiểu nhau qua từng điều nhỏ nhặt. Là dựng nhịp cầu giữa bao nẻo đường tin, Để yêu thương không bao giờ đứt đoạn. Và khi ấy, muôn người chung hướng thiện, Ngọn lửa hòa bình sáng giữa trời mây. Dân tộc lớn không chỉ nhờ sức mạnh, Mà nhờ tình gắn kết tự ngàn xưa dựng xây.
    Love
    Like
    5
    0 Bình luận 0 Chia sẽ