Cập nhật gần đây
  • Love
    Like
    10
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 9:
    BÀI THƠ: NHÀ LÃNH ĐẠO VÀ NĂNG LƯỢNG ĐẠO TRỜI
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Nhà lãnh đạo – không chỉ là người cầm quyền,
    Mà là kẻ nắm mạch Đạo của Trời trong lòng dân.
    Không ra lệnh, mà khiến muôn người tự thuận,
    Không cưỡng cầu, mà vạn vật tự hòa âm.
    Đạo Trời chẳng nói, nhưng năng lượng vẫn vận hành,
    Người lãnh đạo chân chính là kẻ cảm nhận được.
    Thấy Trời qua từng hơi thở nhân sinh,
    Biết thời – mà chẳng cần hỏi chiêm tinh hay sao hạn.
    Khi tâm người trị nước hòa cùng nhịp Đạo,
    Thì mọi mệnh lệnh đều tự nhiên mà đúng.
    Không cần sức mạnh, không cần uy nghi,
    Chỉ một ánh mắt cũng đủ lay động ngàn dân.
    Năng lượng Đạo Trời không ở xa xăm,
    Nó ở trong lòng người biết giữ chính niệm.
    Nhà lãnh đạo nếu còn sợ, còn tham, còn giận,
    Thì luồng năng lượng ấy sẽ đứt giữa đường đi.
    Trời chỉ trao quyền cho người biết khiêm cung,
    Không tranh danh, chẳng chấp thắng hay bại.
    Bởi quyền lực là gánh nặng của lòng tin nhân loại,
    Chứ chẳng phải vinh quang để tự xưng mình.
    Khi nhà lãnh đạo biết tĩnh trong bão tố,
    Thì dân cũng yên dù gió giật mưa giông.
    Bởi năng lượng Đạo Trời lan tỏa không bằng tiếng nói,
    Mà bằng khí chất thanh an từ trong cốt tủy người.
    Không phải mọi lệnh truyền đều có sức,
    Mà chỉ lời nào mang tần số của Chân.
    Khi nói ra từ lòng vô ngã, không vì bản thân,
    Thì tiếng ấy hóa Thiên lệnh, khiến muôn lòng cảm phục.
    Bậc dẫn đạo là người soi sáng chứ không dẫn dắt,
    Không đứng trước – cũng chẳng ở phía sau.
    Chỉ như Trời – ở khắp mà chẳng hiện hình,
    Nhưng ai cũng thấy, cũng cảm, cũng theo.
    Khi người lãnh đạo sống đúng Đạo Trời,
    Thì mọi quyết định đều mang hơi thở an nhiên.
    Không còn trị dân – mà cùng dân kiến tạo,
    Không còn cai quản – mà cùng hòa vận sinh.
    Kết:
    Nhà lãnh đạo là trung tâm của trường năng lượng,
    Nếu tâm lệch – vạn dân dao động bất an.
    Khi thuận Đạo, Trời gia phúc, dân đồng lòng,
    Một niệm sáng – chiếu rạng cả giang san.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ chương 9: BÀI THƠ: NHÀ LÃNH ĐẠO VÀ NĂNG LƯỢNG ĐẠO TRỜI Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Nhà lãnh đạo – không chỉ là người cầm quyền, Mà là kẻ nắm mạch Đạo của Trời trong lòng dân. Không ra lệnh, mà khiến muôn người tự thuận, Không cưỡng cầu, mà vạn vật tự hòa âm. Đạo Trời chẳng nói, nhưng năng lượng vẫn vận hành, Người lãnh đạo chân chính là kẻ cảm nhận được. Thấy Trời qua từng hơi thở nhân sinh, Biết thời – mà chẳng cần hỏi chiêm tinh hay sao hạn. Khi tâm người trị nước hòa cùng nhịp Đạo, Thì mọi mệnh lệnh đều tự nhiên mà đúng. Không cần sức mạnh, không cần uy nghi, Chỉ một ánh mắt cũng đủ lay động ngàn dân. Năng lượng Đạo Trời không ở xa xăm, Nó ở trong lòng người biết giữ chính niệm. Nhà lãnh đạo nếu còn sợ, còn tham, còn giận, Thì luồng năng lượng ấy sẽ đứt giữa đường đi. Trời chỉ trao quyền cho người biết khiêm cung, Không tranh danh, chẳng chấp thắng hay bại. Bởi quyền lực là gánh nặng của lòng tin nhân loại, Chứ chẳng phải vinh quang để tự xưng mình. Khi nhà lãnh đạo biết tĩnh trong bão tố, Thì dân cũng yên dù gió giật mưa giông. Bởi năng lượng Đạo Trời lan tỏa không bằng tiếng nói, Mà bằng khí chất thanh an từ trong cốt tủy người. Không phải mọi lệnh truyền đều có sức, Mà chỉ lời nào mang tần số của Chân. Khi nói ra từ lòng vô ngã, không vì bản thân, Thì tiếng ấy hóa Thiên lệnh, khiến muôn lòng cảm phục. Bậc dẫn đạo là người soi sáng chứ không dẫn dắt, Không đứng trước – cũng chẳng ở phía sau. Chỉ như Trời – ở khắp mà chẳng hiện hình, Nhưng ai cũng thấy, cũng cảm, cũng theo. Khi người lãnh đạo sống đúng Đạo Trời, Thì mọi quyết định đều mang hơi thở an nhiên. Không còn trị dân – mà cùng dân kiến tạo, Không còn cai quản – mà cùng hòa vận sinh. Kết: Nhà lãnh đạo là trung tâm của trường năng lượng, Nếu tâm lệch – vạn dân dao động bất an. Khi thuận Đạo, Trời gia phúc, dân đồng lòng, Một niệm sáng – chiếu rạng cả giang san.
    Like
    Love
    Yay
    9
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10:Bài thơ Chương 11: “Dân vi bản” – dân là gốc của chính trị
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Dân là đất, nước là cây,
    Không có gốc, cội nào xanh biếc mãi.
    Dân là biển, quyền là mây,
    Mây bay khỏi biển – chỉ còn trống trải.
    Chính trị suy nếu quên dân,
    Tựa nhà không móng, sập trong một sớm.
    Ngai vàng dựng bởi lòng nhân,
    Không bởi máu, súng hay quyền cưỡng ép.
    Dân là Trời trong thân phận người,
    Là gương soi nghiệp của kẻ lãnh đạo.
    Trời không tiếng, chỉ lặng cười,
    Khi kẻ cầm quyền quên đi đạo gốc.
    Một lời dân, nặng hơn vạn lệnh,
    Một giọt nước, có thể dâng thành bão tố.
    Nếu lòng dân thuận, nước vững như đồng,
    Nếu lòng dân loạn, ngai vàng cũng đổ.
    Chính trị thật là phụng dân sinh,
    Không phải giữ ngai, hay tô danh hão.
    Kẻ trị dân mà quên nghĩa tình,
    Sẽ bị lịch sử phán như giông bão.
    Dân không chỉ để nghe – để phục,
    Dân là chủ thể của mọi mệnh trời.
    Khi dân đứng, núi sông sáng phục,
    Khi dân gục, triều đại tả tơi.
    “Dân vi bản” – lời xưa còn vọng,
    Từ Hồng Đức, Thăng Long đến muôn đời sau.
    Không ai cao hơn dân tộc,
    Không ngai vàng nào hơn tấm lòng đau.
    Hãy lắng nghe tiếng thở của ruộng đồng,
    Tiếng trẻ thơ trong giấc mơ đói lạnh.
    Hãy cảm nhận nỗi khổ của từng người,
    Vì đó chính là nền móng chính danh.
    Dân là máu – chảy trong mọi quyền lực,
    Dân là hồn – giữ Đạo nước bền lâu.
    Một chính quyền quên đi dân tộc,
    Khác gì cây rụng lá trong sầu.
    Vì thế, chính trị không phải thống trị,
    Mà là nghệ thuật của tình thương.
    Một nhà lãnh đạo hiểu “dân vi bản”,
    Sẽ làm Trời cảm động – và đời nở hoa hương.
    HNI 27/10:📕Bài thơ Chương 11: “Dân vi bản” – dân là gốc của chính trị (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Dân là đất, nước là cây, Không có gốc, cội nào xanh biếc mãi. Dân là biển, quyền là mây, Mây bay khỏi biển – chỉ còn trống trải. Chính trị suy nếu quên dân, Tựa nhà không móng, sập trong một sớm. Ngai vàng dựng bởi lòng nhân, Không bởi máu, súng hay quyền cưỡng ép. Dân là Trời trong thân phận người, Là gương soi nghiệp của kẻ lãnh đạo. Trời không tiếng, chỉ lặng cười, Khi kẻ cầm quyền quên đi đạo gốc. Một lời dân, nặng hơn vạn lệnh, Một giọt nước, có thể dâng thành bão tố. Nếu lòng dân thuận, nước vững như đồng, Nếu lòng dân loạn, ngai vàng cũng đổ. Chính trị thật là phụng dân sinh, Không phải giữ ngai, hay tô danh hão. Kẻ trị dân mà quên nghĩa tình, Sẽ bị lịch sử phán như giông bão. Dân không chỉ để nghe – để phục, Dân là chủ thể của mọi mệnh trời. Khi dân đứng, núi sông sáng phục, Khi dân gục, triều đại tả tơi. “Dân vi bản” – lời xưa còn vọng, Từ Hồng Đức, Thăng Long đến muôn đời sau. Không ai cao hơn dân tộc, Không ngai vàng nào hơn tấm lòng đau. Hãy lắng nghe tiếng thở của ruộng đồng, Tiếng trẻ thơ trong giấc mơ đói lạnh. Hãy cảm nhận nỗi khổ của từng người, Vì đó chính là nền móng chính danh. Dân là máu – chảy trong mọi quyền lực, Dân là hồn – giữ Đạo nước bền lâu. Một chính quyền quên đi dân tộc, Khác gì cây rụng lá trong sầu. Vì thế, chính trị không phải thống trị, Mà là nghệ thuật của tình thương. Một nhà lãnh đạo hiểu “dân vi bản”, Sẽ làm Trời cảm động – và đời nở hoa hương.
    Love
    Like
    Sad
    10
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10 - B17 BÀI THƠ CHƯƠNG 5 :
    SỰ KHÁC BIỆT GIỮA QUYỀN LỰC ÉP BUỘC VÀ QUYỀN LỰC ĐẠO LÝ
    Quyền lực ép buộc dựng trên nỗi sợ,
    Còn quyền lực đạo lý lớn lên từ lòng tin.
    Một bên trói buộc thân xác con người,
    Một bên đánh thức linh hồn nhân nghĩa.
    Kẻ dùng bạo lực để trị dân,
    Chỉ được vâng lời, không được tôn kính.
    Người dùng đạo để cảm hóa lòng dân,
    Dù không nói một lời, thiên hạ cũng thuận theo.
    Ép buộc khiến người cúi đầu ngoài mặt,
    Nhưng trong tim vẫn giữ ngọn lửa phản kháng.
    Đạo lý khiến người cúi đầu tự nguyện,
    Bởi thấy trong đó ánh sáng của công tâm.
    Quyền lực ép buộc tồn tại nhờ gươm giáo,
    Quyền lực đạo lý sống bằng uy đức vô hình.
    Một bên dựng tường cao để che sợ hãi,
    Một bên mở cửa rộng để đón niềm tin.
    Người ép dân bằng lệnh, dân nghe mà oán,
    Người dẫn dân bằng gương, dân theo mà thương.
    Kẻ thống trị tin sức mạnh,
    Bậc hiền nhân tin vào đạo lý.
    Ép buộc khiến xã hội im lặng,
    Đạo lý khiến xã hội an hòa.
    Im lặng là bóng tối của sợ hãi,
    An hòa là ánh sáng của trí minh.
    Quyền lực ép buộc là tạm thời,
    Như ngọn đèn dầu trước bão.
    Quyền lực đạo lý là vĩnh cửu,
    Như mặt trời soi khắp muôn phương.
    Khi người cầm quyền hiểu rằng đạo đức là sức mạnh,
    Thì họ không cần vũ lực để giữ ngai vàng.
    Khi người cầm quyền dựa vào sợ hãi,
    Thì Trời đã ghi tên họ trong sổ phạt.
    Bởi Trời không trao quyền cho kẻ cưỡng ép,
    Trời chỉ ban mệnh cho người thuận Đạo.
    Ép buộc khiến quyền tan như cát bụi,
    Đạo lý khiến quyền sáng như sao trời.
    Hỡi kẻ đang nắm quyền, hãy tự hỏi lòng mình:
    Ngươi khiến dân sợ, hay khiến dân kính?
    Bởi câu trả lời ấy –
    Sẽ định đoạt ngươi thuộc về Đạo Trời hay Đạo diệt.
    HNI 27/10 - B17 📕 BÀI THƠ CHƯƠNG 5 : SỰ KHÁC BIỆT GIỮA QUYỀN LỰC ÉP BUỘC VÀ QUYỀN LỰC ĐẠO LÝ Quyền lực ép buộc dựng trên nỗi sợ, Còn quyền lực đạo lý lớn lên từ lòng tin. Một bên trói buộc thân xác con người, Một bên đánh thức linh hồn nhân nghĩa. Kẻ dùng bạo lực để trị dân, Chỉ được vâng lời, không được tôn kính. Người dùng đạo để cảm hóa lòng dân, Dù không nói một lời, thiên hạ cũng thuận theo. Ép buộc khiến người cúi đầu ngoài mặt, Nhưng trong tim vẫn giữ ngọn lửa phản kháng. Đạo lý khiến người cúi đầu tự nguyện, Bởi thấy trong đó ánh sáng của công tâm. Quyền lực ép buộc tồn tại nhờ gươm giáo, Quyền lực đạo lý sống bằng uy đức vô hình. Một bên dựng tường cao để che sợ hãi, Một bên mở cửa rộng để đón niềm tin. Người ép dân bằng lệnh, dân nghe mà oán, Người dẫn dân bằng gương, dân theo mà thương. Kẻ thống trị tin sức mạnh, Bậc hiền nhân tin vào đạo lý. Ép buộc khiến xã hội im lặng, Đạo lý khiến xã hội an hòa. Im lặng là bóng tối của sợ hãi, An hòa là ánh sáng của trí minh. Quyền lực ép buộc là tạm thời, Như ngọn đèn dầu trước bão. Quyền lực đạo lý là vĩnh cửu, Như mặt trời soi khắp muôn phương. Khi người cầm quyền hiểu rằng đạo đức là sức mạnh, Thì họ không cần vũ lực để giữ ngai vàng. Khi người cầm quyền dựa vào sợ hãi, Thì Trời đã ghi tên họ trong sổ phạt. Bởi Trời không trao quyền cho kẻ cưỡng ép, Trời chỉ ban mệnh cho người thuận Đạo. Ép buộc khiến quyền tan như cát bụi, Đạo lý khiến quyền sáng như sao trời. Hỡi kẻ đang nắm quyền, hãy tự hỏi lòng mình: Ngươi khiến dân sợ, hay khiến dân kính? Bởi câu trả lời ấy – Sẽ định đoạt ngươi thuộc về Đạo Trời hay Đạo diệt.
    Like
    Love
    Haha
    9
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10:
    BÀI THƠ CHƯƠNG 15: CHÍNH TRỊ NGHỊCH ĐẠO – DẤU HIỆU SUY VONG CỦA ĐẾ CHẾ
    Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính trị thuận Đạo – dân an nước thịnh,
    Nghịch Đạo sinh loạn – nghiệp đế vong tàn.
    Trời có luật Trời, Đạo có quy hoàn,
    Ai cưỡng nghịch Đạo, ắt chuốc tai ương.
    Khi quyền lực rời xa lẽ thiện,
    Búa công lý hóa lưỡi gươm oan.
    Quan tham ngồi ngất ngai vàng,
    Mưu riêng che nghĩa, giả đàng chính tâm.
    Lòng dân tan, vận nước chìm,
    Đế vương mất gốc, triều đình lung lay.
    Thiên mệnh chẳng ở nơi tay,
    Mà trong dân khí – mạch dài nghìn năm.
    Ngai vàng dựng giữa phù vân,
    Nước như lửa ngầm, sớm tàn muộn thôi.
    Người trên càng cố nắm ngôi,
    Trời càng khiến cảnh rối bời tang thương.
    Khi chính trị biến thành công cụ,
    Đạo nghĩa bị bán giữa chợ đời.
    Lời vua hóa rỗng tiếng chơi,
    Dân cười trong lệ, lệ rơi trong cười.
    Chính trị nghịch Đạo – dân rời, lòng tán,
    Tham quyền sinh họa, dục vọng sinh tai.
    Trời nhìn xuống, gió cuốn bay,
    Công danh một kiếp hóa mây giữa trời.
    Chính trị thuận Đạo, nhân hòa vững,
    Dân cùng trị nước – đạo cùng sinh.
    Còn nghịch Đạo, dối lòng dân,
    Thì cơ đồ rã, chẳng cần binh đao.
    Khi vua trị nước bằng sợ hãi,
    Là lúc Đạo rời, Trời quay lưng.
    Một lời gian dối – mất nghìn năm chứng,
    Một kẻ tham quyền – đốt cả thiên đường.
    Triều đại suy vong không vì địch,
    Mà vì trong chính trị nghịch tâm.
    Khi kẻ trị quên Đạo nhân,
    Là khi đế nghiệp hóa thân tro tàn.
    Đạo không giữ – Trời không còn giữ,
    Dân không tin – nước chẳng còn dân.
    Khi quyền không gắn với ân,
    Thì vương triều ấy chỉ còn trong mộng.
    Kẻ hiểu Đạo – trị bằng nhân nghĩa,
    Kẻ nghịch Đạo – tự diệt cơ đồ.
    Ngai vàng chẳng giữ được lâu,
    Nếu quên dân gốc, quên câu Trời dạy:
    “Dân là nước – vua như thuyền nổi,
    Nước thuận thì thuyền nổi vững vàng.
    Nước dậy sóng, thuyền tan hoang,
    Chính trị nghịch Đạo – Trời toan đổi người.”
    HNI 27/10: 📕 BÀI THƠ CHƯƠNG 15: CHÍNH TRỊ NGHỊCH ĐẠO – DẤU HIỆU SUY VONG CỦA ĐẾ CHẾ Henry Lê – Lê Đình Hải Chính trị thuận Đạo – dân an nước thịnh, Nghịch Đạo sinh loạn – nghiệp đế vong tàn. Trời có luật Trời, Đạo có quy hoàn, Ai cưỡng nghịch Đạo, ắt chuốc tai ương. Khi quyền lực rời xa lẽ thiện, Búa công lý hóa lưỡi gươm oan. Quan tham ngồi ngất ngai vàng, Mưu riêng che nghĩa, giả đàng chính tâm. Lòng dân tan, vận nước chìm, Đế vương mất gốc, triều đình lung lay. Thiên mệnh chẳng ở nơi tay, Mà trong dân khí – mạch dài nghìn năm. Ngai vàng dựng giữa phù vân, Nước như lửa ngầm, sớm tàn muộn thôi. Người trên càng cố nắm ngôi, Trời càng khiến cảnh rối bời tang thương. Khi chính trị biến thành công cụ, Đạo nghĩa bị bán giữa chợ đời. Lời vua hóa rỗng tiếng chơi, Dân cười trong lệ, lệ rơi trong cười. Chính trị nghịch Đạo – dân rời, lòng tán, Tham quyền sinh họa, dục vọng sinh tai. Trời nhìn xuống, gió cuốn bay, Công danh một kiếp hóa mây giữa trời. Chính trị thuận Đạo, nhân hòa vững, Dân cùng trị nước – đạo cùng sinh. Còn nghịch Đạo, dối lòng dân, Thì cơ đồ rã, chẳng cần binh đao. Khi vua trị nước bằng sợ hãi, Là lúc Đạo rời, Trời quay lưng. Một lời gian dối – mất nghìn năm chứng, Một kẻ tham quyền – đốt cả thiên đường. Triều đại suy vong không vì địch, Mà vì trong chính trị nghịch tâm. Khi kẻ trị quên Đạo nhân, Là khi đế nghiệp hóa thân tro tàn. Đạo không giữ – Trời không còn giữ, Dân không tin – nước chẳng còn dân. Khi quyền không gắn với ân, Thì vương triều ấy chỉ còn trong mộng. Kẻ hiểu Đạo – trị bằng nhân nghĩa, Kẻ nghịch Đạo – tự diệt cơ đồ. Ngai vàng chẳng giữ được lâu, Nếu quên dân gốc, quên câu Trời dạy: “Dân là nước – vua như thuyền nổi, Nước thuận thì thuyền nổi vững vàng. Nước dậy sóng, thuyền tan hoang, Chính trị nghịch Đạo – Trời toan đổi người.”
    Love
    Like
    Wow
    10
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 16:
    Lòng dân và tính chính danh của quyền lực
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Trời trao quyền chẳng phải cho kẻ mạnh,
    Mà cho ai biết lắng tiếng dân ca.
    Dân là biển, quyền như thuyền lướt sóng,
    Thuận lòng dân – thuyền vững đến muôn xa.
    Chính danh đến từ tâm dân quy tụ,
    Không từ ngai, gươm báu hay ấn vàng.
    Khi dân thuận, nước yên như trời lặng,
    Khi dân ly, quyền lực hóa tro tàn.
    Có triều đại dựng trên lòng dân sáng,
    Chẳng cần roi vẫn khiến nước thanh bình.
    Có triều đại dựa vào gươm và máu,
    Rụng tan như lá úa cuối bình minh.
    Dân là gốc – lời xưa còn vọng mãi,
    Bao vương triều hiểu được đạo này đâu?
    Họ quên mất gốc sinh ra quyền lực,
    Từ nhân tâm – chẳng từ đấu tranh sầu.
    Khi quyền lực biết soi mình trong dân,
    Sẽ thấy trong mắt dân – Trời phản chiếu.
    Còn khi nó xem dân như cát bụi,
    Chính nó đang tự đổ vỡ, tiêu điều.
    Một nụ cười dân – ngàn vàng chính trị,
    Một giọt lệ dân – mệnh trị lung lay.
    Lòng dân chính là thước đo danh chính,
    Quyền nào trái Đạo – sớm hóa mây bay.
    Có thể dối một thời bằng mỹ ngữ,
    Nhưng dân không dại mãi giữa nhân gian.
    Sức mạnh thật không nằm trong khẩu hiệu,
    Mà trong niềm tin – gắn kết muôn ngàn.
    Khi dân đã tin – non sông bất khuất,
    Khi dân đã nghi – đế chế lung lay.
    Chính danh ấy – không ai tự ban tặng,
    Mà do lòng dân – ký giữa trời mây.
    HNI 27/10: 📕 Bài thơ chương 16: Lòng dân và tính chính danh của quyền lực (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Trời trao quyền chẳng phải cho kẻ mạnh, Mà cho ai biết lắng tiếng dân ca. Dân là biển, quyền như thuyền lướt sóng, Thuận lòng dân – thuyền vững đến muôn xa. Chính danh đến từ tâm dân quy tụ, Không từ ngai, gươm báu hay ấn vàng. Khi dân thuận, nước yên như trời lặng, Khi dân ly, quyền lực hóa tro tàn. Có triều đại dựng trên lòng dân sáng, Chẳng cần roi vẫn khiến nước thanh bình. Có triều đại dựa vào gươm và máu, Rụng tan như lá úa cuối bình minh. Dân là gốc – lời xưa còn vọng mãi, Bao vương triều hiểu được đạo này đâu? Họ quên mất gốc sinh ra quyền lực, Từ nhân tâm – chẳng từ đấu tranh sầu. Khi quyền lực biết soi mình trong dân, Sẽ thấy trong mắt dân – Trời phản chiếu. Còn khi nó xem dân như cát bụi, Chính nó đang tự đổ vỡ, tiêu điều. Một nụ cười dân – ngàn vàng chính trị, Một giọt lệ dân – mệnh trị lung lay. Lòng dân chính là thước đo danh chính, Quyền nào trái Đạo – sớm hóa mây bay. Có thể dối một thời bằng mỹ ngữ, Nhưng dân không dại mãi giữa nhân gian. Sức mạnh thật không nằm trong khẩu hiệu, Mà trong niềm tin – gắn kết muôn ngàn. Khi dân đã tin – non sông bất khuất, Khi dân đã nghi – đế chế lung lay. Chính danh ấy – không ai tự ban tặng, Mà do lòng dân – ký giữa trời mây.
    Love
    Like
    Wow
    Angry
    11
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 16:
    Lòng dân và tính chính danh của quyền lực
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Trời trao quyền chẳng phải cho kẻ mạnh,
    Mà cho ai biết lắng tiếng dân ca.
    Dân là biển, quyền như thuyền lướt sóng,
    Thuận lòng dân – thuyền vững đến muôn xa.
    Chính danh đến từ tâm dân quy tụ,
    Không từ ngai, gươm báu hay ấn vàng.
    Khi dân thuận, nước yên như trời lặng,
    Khi dân ly, quyền lực hóa tro tàn.
    Có triều đại dựng trên lòng dân sáng,
    Chẳng cần roi vẫn khiến nước thanh bình.
    Có triều đại dựa vào gươm và máu,
    Rụng tan như lá úa cuối bình minh.
    Dân là gốc – lời xưa còn vọng mãi,
    Bao vương triều hiểu được đạo này đâu?
    Họ quên mất gốc sinh ra quyền lực,
    Từ nhân tâm – chẳng từ đấu tranh sầu.
    Khi quyền lực biết soi mình trong dân,
    Sẽ thấy trong mắt dân – Trời phản chiếu.
    Còn khi nó xem dân như cát bụi,
    Chính nó đang tự đổ vỡ, tiêu điều.
    Một nụ cười dân – ngàn vàng chính trị,
    Một giọt lệ dân – mệnh trị lung lay.
    Lòng dân chính là thước đo danh chính,
    Quyền nào trái Đạo – sớm hóa mây bay.
    Có thể dối một thời bằng mỹ ngữ,
    Nhưng dân không dại mãi giữa nhân gian.
    Sức mạnh thật không nằm trong khẩu hiệu,
    Mà trong niềm tin – gắn kết muôn ngàn.
    Khi dân đã tin – non sông bất khuất,
    Khi dân đã nghi – đế chế lung lay.
    Chính danh ấy – không ai tự ban tặng,
    Mà do lòng dân – ký giữa trời mây.
    HNI 27/10: 📕 Bài thơ chương 16: Lòng dân và tính chính danh của quyền lực (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Trời trao quyền chẳng phải cho kẻ mạnh, Mà cho ai biết lắng tiếng dân ca. Dân là biển, quyền như thuyền lướt sóng, Thuận lòng dân – thuyền vững đến muôn xa. Chính danh đến từ tâm dân quy tụ, Không từ ngai, gươm báu hay ấn vàng. Khi dân thuận, nước yên như trời lặng, Khi dân ly, quyền lực hóa tro tàn. Có triều đại dựng trên lòng dân sáng, Chẳng cần roi vẫn khiến nước thanh bình. Có triều đại dựa vào gươm và máu, Rụng tan như lá úa cuối bình minh. Dân là gốc – lời xưa còn vọng mãi, Bao vương triều hiểu được đạo này đâu? Họ quên mất gốc sinh ra quyền lực, Từ nhân tâm – chẳng từ đấu tranh sầu. Khi quyền lực biết soi mình trong dân, Sẽ thấy trong mắt dân – Trời phản chiếu. Còn khi nó xem dân như cát bụi, Chính nó đang tự đổ vỡ, tiêu điều. Một nụ cười dân – ngàn vàng chính trị, Một giọt lệ dân – mệnh trị lung lay. Lòng dân chính là thước đo danh chính, Quyền nào trái Đạo – sớm hóa mây bay. Có thể dối một thời bằng mỹ ngữ, Nhưng dân không dại mãi giữa nhân gian. Sức mạnh thật không nằm trong khẩu hiệu, Mà trong niềm tin – gắn kết muôn ngàn. Khi dân đã tin – non sông bất khuất, Khi dân đã nghi – đế chế lung lay. Chính danh ấy – không ai tự ban tặng, Mà do lòng dân – ký giữa trời mây.
    Like
    Love
    Yay
    Wow
    10
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 20:
    Bài học từ các triều đại hưng – vong trong lịch sử Việt Nam và thế giới
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Lịch sử mở – trang dài như vận nước,
    Mỗi triều hưng, mỗi triều vong – một lời.
    Kẻ thuận Đạo, lòng dân hòa Trời đất,
    Người nghịch tâm, cơ nghiệp hóa mù khơi.
    Nhà Trần sáng vì dân cùng gánh nặng,
    Lê Thánh Tông trị nước bằng nhân tâm.
    Nguyễn Huệ dấy, ngọn cờ dân nghĩa rực,
    Dân tin theo, sấm dậy khắp xa gần.
    Nhà Hồ gấp – dù tài cao chí lớn,
    Nhưng lòng dân chưa kịp đắp nền sâu.
    Nhà Mạc sáng – rồi tan như khói sớm,
    Vì mất lòng, trời cũng ngoảnh nhìn đâu.
    Trên thế giới, La Mã từng lừng lẫy,
    Cũng gục ngã khi dân mất niềm tin.
    Đông phương có Tần – vạn người cúi lạy,
    Rồi vỡ tan vì áp bức, kiêu linh.
    Anh từng mạnh khi biết nghe dân nói,
    Pháp từng hưng vì mở trí nhân quyền.
    Nhật canh tân – vì dân làm gốc rễ,
    Mỹ trường tồn – do dân được nói lên.
    Không có triều đại nào vĩnh cửu,
    Nếu xa dân, thì sớm cũng tàn phai.
    Không có quốc gia nào suy đổ,
    Nếu dân còn tin, còn hát giữa tương lai.
    Lịch sử dạy – dân là dòng huyết mạch,
    Chính quyền kia chỉ là chiếc con thuyền.
    Thuyền không nước, chẳng đi về bến được,
    Nước không thuyền, vẫn tự chảy bình yên.
    Bài học lớn không ghi trong bia đá,
    Mà trong lòng muôn thế hệ cháu con.
    Triều đại hưng – vì dân làm rường cột,
    Triều đại vong – vì phản lại nhân tâm.
    Quyền không bền nếu chỉ xây trên sợ,
    Ngai không lâu nếu dựng bởi lừa dối.
    Chỉ có dân – mới là gốc của Trời,
    Giữ quốc đạo trường tồn qua vạn lối.
    Từ Việt Nam nhìn ra muôn thế giới,
    Một đạo chung, muôn nẻo vẫn cùng về:
    Dân làm chủ – Trời trao quyền chính trị,
    Thuận lòng dân – muôn kiếp chẳng hề phai.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ chương 20: Bài học từ các triều đại hưng – vong trong lịch sử Việt Nam và thế giới (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Lịch sử mở – trang dài như vận nước, Mỗi triều hưng, mỗi triều vong – một lời. Kẻ thuận Đạo, lòng dân hòa Trời đất, Người nghịch tâm, cơ nghiệp hóa mù khơi. Nhà Trần sáng vì dân cùng gánh nặng, Lê Thánh Tông trị nước bằng nhân tâm. Nguyễn Huệ dấy, ngọn cờ dân nghĩa rực, Dân tin theo, sấm dậy khắp xa gần. Nhà Hồ gấp – dù tài cao chí lớn, Nhưng lòng dân chưa kịp đắp nền sâu. Nhà Mạc sáng – rồi tan như khói sớm, Vì mất lòng, trời cũng ngoảnh nhìn đâu. Trên thế giới, La Mã từng lừng lẫy, Cũng gục ngã khi dân mất niềm tin. Đông phương có Tần – vạn người cúi lạy, Rồi vỡ tan vì áp bức, kiêu linh. Anh từng mạnh khi biết nghe dân nói, Pháp từng hưng vì mở trí nhân quyền. Nhật canh tân – vì dân làm gốc rễ, Mỹ trường tồn – do dân được nói lên. Không có triều đại nào vĩnh cửu, Nếu xa dân, thì sớm cũng tàn phai. Không có quốc gia nào suy đổ, Nếu dân còn tin, còn hát giữa tương lai. Lịch sử dạy – dân là dòng huyết mạch, Chính quyền kia chỉ là chiếc con thuyền. Thuyền không nước, chẳng đi về bến được, Nước không thuyền, vẫn tự chảy bình yên. Bài học lớn không ghi trong bia đá, Mà trong lòng muôn thế hệ cháu con. Triều đại hưng – vì dân làm rường cột, Triều đại vong – vì phản lại nhân tâm. Quyền không bền nếu chỉ xây trên sợ, Ngai không lâu nếu dựng bởi lừa dối. Chỉ có dân – mới là gốc của Trời, Giữ quốc đạo trường tồn qua vạn lối. Từ Việt Nam nhìn ra muôn thế giới, Một đạo chung, muôn nẻo vẫn cùng về: Dân làm chủ – Trời trao quyền chính trị, Thuận lòng dân – muôn kiếp chẳng hề phai.
    Like
    Love
    Wow
    Sad
    10
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10:Bài thơ chương 18:
    Khi chính trị biết lắng nghe – dân tự cất tiếng hát
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi chính trị biết lắng nghe dân nói,
    Trời cũng cười, mây trắng hóa thanh âm.
    Không cần sáo, dân ca vang khắp chốn,
    Tự lòng người ngân khúc hát tri âm.
    Quyền lực thật là nghệ thuật lắng nghe,
    Không trên bục, mà giữa đời đồng vọng.
    Khi lãnh đạo biết cúi đầu trước lý,
    Dân sẽ nâng bằng trái tim sáng trong.
    Lắng nghe dân – chính là nghe Trời nói,
    Mỗi tiếng chân quê, mỗi giọt mồ hôi.
    Là bản nhạc của Đạo Trời soi tỏ,
    Là mệnh Trời gửi xuống giữa loài người.
    Chính trị biết nghe, dân không còn sợ,
    Vì được nói – là được sống làm người.
    Bao bức xúc hóa thành câu chuyện mới,
    Bao đau thương hóa tiếng hát vui tươi.
    Một lời dân – khởi đầu muôn cải cách,
    Một ánh nhìn – mở cánh cửa tương lai.
    Không có đối thoại, chính trị hóa lạnh,
    Có lắng nghe – xã hội sẽ nở hoa.
    Khi dân hát, là khi lòng dân thuận,
    Không ép buộc, mà tự khởi từ tin.
    Niềm vui ấy chẳng do quyền ban phát,
    Mà do hòa bình giữa Đạo và Dân.
    Chính trị khôn không nằm trong khẩu hiệu,
    Mà trong từng phản hồi chân thật.
    Nghe dân nói, rồi cùng dân hành động,
    Ấy là minh triết của người trị dân.
    Dân hát ca – không vì ai ra lệnh,
    Mà vì thấy được chính mình trong Đạo.
    Người cầm quyền không áp đặt tiếng dân,
    Chỉ khơi mạch – để dân tự ngân vang.
    Khi dân được hát, quốc gia sống dậy,
    Khi dân im lặng – thời thế suy tàn.
    Nghe tiếng dân – như nghe tiếng vũ trụ,
    Nhịp tim chung của muôn triệu nhân gian.
    HNI 27/10:📕Bài thơ chương 18: Khi chính trị biết lắng nghe – dân tự cất tiếng hát (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi chính trị biết lắng nghe dân nói, Trời cũng cười, mây trắng hóa thanh âm. Không cần sáo, dân ca vang khắp chốn, Tự lòng người ngân khúc hát tri âm. Quyền lực thật là nghệ thuật lắng nghe, Không trên bục, mà giữa đời đồng vọng. Khi lãnh đạo biết cúi đầu trước lý, Dân sẽ nâng bằng trái tim sáng trong. Lắng nghe dân – chính là nghe Trời nói, Mỗi tiếng chân quê, mỗi giọt mồ hôi. Là bản nhạc của Đạo Trời soi tỏ, Là mệnh Trời gửi xuống giữa loài người. Chính trị biết nghe, dân không còn sợ, Vì được nói – là được sống làm người. Bao bức xúc hóa thành câu chuyện mới, Bao đau thương hóa tiếng hát vui tươi. Một lời dân – khởi đầu muôn cải cách, Một ánh nhìn – mở cánh cửa tương lai. Không có đối thoại, chính trị hóa lạnh, Có lắng nghe – xã hội sẽ nở hoa. Khi dân hát, là khi lòng dân thuận, Không ép buộc, mà tự khởi từ tin. Niềm vui ấy chẳng do quyền ban phát, Mà do hòa bình giữa Đạo và Dân. Chính trị khôn không nằm trong khẩu hiệu, Mà trong từng phản hồi chân thật. Nghe dân nói, rồi cùng dân hành động, Ấy là minh triết của người trị dân. Dân hát ca – không vì ai ra lệnh, Mà vì thấy được chính mình trong Đạo. Người cầm quyền không áp đặt tiếng dân, Chỉ khơi mạch – để dân tự ngân vang. Khi dân được hát, quốc gia sống dậy, Khi dân im lặng – thời thế suy tàn. Nghe tiếng dân – như nghe tiếng vũ trụ, Nhịp tim chung của muôn triệu nhân gian.
    Like
    Love
    Haha
    Wow
    10
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10 - B18

    CHƯƠNG 24: KHI NGƯỜI LÃNH ĐẠO ĐẶT DÂN LÊN TRÊN QUYỀN
    (Trong kỷ nguyên Đạo Trời, người cầm quyền trở lại làm người phụng sự)

    1. Quyền không phải để thống trị mà để phụng sự
    Từ khi loài người hình thành các thiết chế chính trị đầu tiên, quyền lực luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt, nó đem lại trật tự, bảo vệ cộng đồng khỏi hỗn loạn. Nhưng mặt khác, nếu quyền được đặt lên trên dân, nó sẽ trở thành xiềng xích trói buộc chính những người mà nó phải phục vụ.
    Người lãnh đạo thực sự hiểu Đạo Trời không xem quyền như bậc thang vinh quang, mà như gánh nặng thiêng liêng của lòng dân. Họ biết rằng quyền lực chỉ tồn tại để gìn giữ, bảo hộ, khai sáng – chứ không phải để ép buộc, sai khiến, hay tôn thờ bản ngã.
    Khi người lãnh đạo đặt dân lên trên quyền, họ trở lại đúng bản chất của người dẫn đường, không phải kẻ đứng đầu. Bởi trong trật tự của Trời Đất, dân mới là gốc; lãnh đạo chỉ là người tạm thời được dân ủy thác trách nhiệm hành Đạo.
    Chỉ khi ấy, quyền lực mới trở nên trong sáng. Nó không còn là “quyền trên đầu người”, mà trở thành “quyền trong tay dân”. Và người lãnh đạo – thay vì được xem là người cai trị – trở thành người phục vụ cao quý nhất, vì dám cúi mình trước nguyện vọng của dân tộc, dám đặt lợi ích chung lên trên mọi ham muốn cá nhân.

    2. Sự khác biệt giữa người cầm quyền và người lãnh đạo
    Có một ranh giới rất mỏng giữa “cầm quyền” và “lãnh đạo”, nhưng hệ quả của nó là hai con đường lịch sử hoàn toàn trái ngược.
    Người cầm quyền dựa vào sức mạnh, luật lệ, mệnh lệnh.
    Người lãnh đạo dựa vào niềm tin, tấm gương, và đạo đức.
    Người cầm quyền dùng “quyền uy” để buộc người khác tuân phục.
    Người lãnh đạo dùng “tâm uy” để khiến người khác tự nguyện đi theo.
    Người cầm quyền sợ mất ghế.
    Người lãnh đạo sợ mất lòng dân.
    Một xã hội có thể tồn tại với người cầm quyền, nhưng chỉ có thể phát triển và tiến hóa khi có người lãnh đạo đích thực. Bởi khi dân chỉ bị quản lý, họ sẽ sống trong khuôn phép và sợ hãi; nhưng khi dân được dẫn dắt, họ sẽ sống trong sáng tạo và niềm ti
    HNI 27/10 - B18 🌺🌺🌺 🌺CHƯƠNG 24: KHI NGƯỜI LÃNH ĐẠO ĐẶT DÂN LÊN TRÊN QUYỀN (Trong kỷ nguyên Đạo Trời, người cầm quyền trở lại làm người phụng sự) 1. Quyền không phải để thống trị mà để phụng sự Từ khi loài người hình thành các thiết chế chính trị đầu tiên, quyền lực luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt, nó đem lại trật tự, bảo vệ cộng đồng khỏi hỗn loạn. Nhưng mặt khác, nếu quyền được đặt lên trên dân, nó sẽ trở thành xiềng xích trói buộc chính những người mà nó phải phục vụ. Người lãnh đạo thực sự hiểu Đạo Trời không xem quyền như bậc thang vinh quang, mà như gánh nặng thiêng liêng của lòng dân. Họ biết rằng quyền lực chỉ tồn tại để gìn giữ, bảo hộ, khai sáng – chứ không phải để ép buộc, sai khiến, hay tôn thờ bản ngã. Khi người lãnh đạo đặt dân lên trên quyền, họ trở lại đúng bản chất của người dẫn đường, không phải kẻ đứng đầu. Bởi trong trật tự của Trời Đất, dân mới là gốc; lãnh đạo chỉ là người tạm thời được dân ủy thác trách nhiệm hành Đạo. Chỉ khi ấy, quyền lực mới trở nên trong sáng. Nó không còn là “quyền trên đầu người”, mà trở thành “quyền trong tay dân”. Và người lãnh đạo – thay vì được xem là người cai trị – trở thành người phục vụ cao quý nhất, vì dám cúi mình trước nguyện vọng của dân tộc, dám đặt lợi ích chung lên trên mọi ham muốn cá nhân. 2. Sự khác biệt giữa người cầm quyền và người lãnh đạo Có một ranh giới rất mỏng giữa “cầm quyền” và “lãnh đạo”, nhưng hệ quả của nó là hai con đường lịch sử hoàn toàn trái ngược. Người cầm quyền dựa vào sức mạnh, luật lệ, mệnh lệnh. Người lãnh đạo dựa vào niềm tin, tấm gương, và đạo đức. Người cầm quyền dùng “quyền uy” để buộc người khác tuân phục. Người lãnh đạo dùng “tâm uy” để khiến người khác tự nguyện đi theo. Người cầm quyền sợ mất ghế. Người lãnh đạo sợ mất lòng dân. Một xã hội có thể tồn tại với người cầm quyền, nhưng chỉ có thể phát triển và tiến hóa khi có người lãnh đạo đích thực. Bởi khi dân chỉ bị quản lý, họ sẽ sống trong khuôn phép và sợ hãi; nhưng khi dân được dẫn dắt, họ sẽ sống trong sáng tạo và niềm ti
    Like
    Love
    Wow
    10
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
Nhiều câu chuyện hơn…