• HNI 27/10 - BÀI THƠ CHƯƠNG 2 : HENRYLE – LÊ ĐÌNH HẢI VÀ TRIẾT HỌC VĂN HỌC HIỆN ĐẠI

    Trong dòng chảy vô tận của ngôn từ,
    Anh thắp sáng ngọn đuốc tư tưởng,
    Văn học không chỉ là trang giấy mỏng,
    Mà là bản thể sống, là linh hồn nhân gian.
    HenryLe – kẻ đi tìm sự thật,
    Giữa bão tố thời đại, anh dựng triết lý,
    Không để văn chương ngủ yên trong quá khứ,
    Mà gọi nó đứng lên, đối thoại cùng hôm nay.

    Mỗi con chữ là một hạt mầm tư tưởng,
    Mỗi vần thơ là một nhịp tim nhân loại,
    Triết học văn học – không khô khan định nghĩa,
    Mà là mạch sống căng tràn ý nghĩa bất diệt.

    Anh viết như gieo, anh nghĩ như trồng,
    Gieo hạt giống tự do vào đất tâm hồn nhân thế,
    Trồng cây tri thức, để mai sau xanh tỏa,
    Che bóng cho người, soi sáng lối đi xa.

    HenryLe – Lê Đình Hải, người thợ xây ngôn ngữ,
    Chạm vào nỗi đau để gọi thức tình thương,
    Chạm vào hiện thực để tìm ra chân lý,
    Và dựng triết học văn chương hiện đại –
    Như một ngọn núi sừng sững giữa bầu trời nhân loại.
    Đọc thêm

    Đọc thêm


    Đọc thêm
    HNI 27/10 - BÀI THƠ CHƯƠNG 2 : HENRYLE – LÊ ĐÌNH HẢI VÀ TRIẾT HỌC VĂN HỌC HIỆN ĐẠI Trong dòng chảy vô tận của ngôn từ, Anh thắp sáng ngọn đuốc tư tưởng, Văn học không chỉ là trang giấy mỏng, Mà là bản thể sống, là linh hồn nhân gian. HenryLe – kẻ đi tìm sự thật, Giữa bão tố thời đại, anh dựng triết lý, Không để văn chương ngủ yên trong quá khứ, Mà gọi nó đứng lên, đối thoại cùng hôm nay. Mỗi con chữ là một hạt mầm tư tưởng, Mỗi vần thơ là một nhịp tim nhân loại, Triết học văn học – không khô khan định nghĩa, Mà là mạch sống căng tràn ý nghĩa bất diệt. Anh viết như gieo, anh nghĩ như trồng, Gieo hạt giống tự do vào đất tâm hồn nhân thế, Trồng cây tri thức, để mai sau xanh tỏa, Che bóng cho người, soi sáng lối đi xa. HenryLe – Lê Đình Hải, người thợ xây ngôn ngữ, Chạm vào nỗi đau để gọi thức tình thương, Chạm vào hiện thực để tìm ra chân lý, Và dựng triết học văn chương hiện đại – Như một ngọn núi sừng sững giữa bầu trời nhân loại. Đọc thêm Đọc thêm  Đọc thêm
    Like
    Love
    Angry
    11
    1 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 26-10 - BIẾT ƠN NGÀY CHỦ NHẬT HỒNG:
    Ngày Chủ Nhật Hồng là dịp để mỗi thành viên HNI cùng nhìn lại hành trình gắn kết, sẻ chia và lan tỏa yêu thương. Đây không chỉ là một ngày hội ngập tràn năng lượng tích cực mà còn là minh chứng cho tinh thần tự hào, biết ơn và tin tưởng mà chúng ta dành cho nhau. Trong từng nụ cười, cái bắt tay hay hành động nhỏ bé, ta đều thấy sự ấm áp của tình đồng đội và sự tận tâm vì cộng đồng.
    Chúng ta tự hào khi được khoác trên mình màu áo HNI – màu của sự đoàn kết, yêu thương và phụng sự. Mỗi giọt mồ hôi rơi, mỗi việc làm ý nghĩa đều thể hiện niềm tin vững chắc rằng khi trái tim cùng chung nhịp đập, chúng ta sẽ tạo nên những giá trị tốt đẹp lâu dài. Ngày Chủ Nhật Hồng vì thế không chỉ là một sự kiện, mà còn là biểu tượng của sự biết ơn – biết ơn cuộc sống, biết ơn cộng đồng và biết ơn những người đồng hành.
    Tinh thần “sống là cho đi” luôn thôi thúc mỗi thành viên HNI dấn thân hết mình, không ngại khó khăn, chỉ mong mang lại nụ cười và hạnh phúc cho nhiều người hơn nữa. Sự gắn kết và sẻ chia đã làm nên sức mạnh, để từ đó chúng ta càng thêm vững bước, tin tưởng và yêu thương nhau nhiều hơn.
    Ngày Chủ Nhật Hồng lan tỏa – nhắc nhở chúng ta tiếp tục sống với lòng biết ơn, phụng sự và cống hiến. Với HNI, đó chính là niềm tự hào bất tận, là hành trình đẹp đẽ mà mỗi chúng ta đều đang cùng nhau viết nên bằng tất cả trái tim.
    Đọc thêm
    Đọc thêm
    HNI 26-10 - BIẾT ƠN NGÀY CHỦ NHẬT HỒNG: Ngày Chủ Nhật Hồng là dịp để mỗi thành viên HNI cùng nhìn lại hành trình gắn kết, sẻ chia và lan tỏa yêu thương. Đây không chỉ là một ngày hội ngập tràn năng lượng tích cực mà còn là minh chứng cho tinh thần tự hào, biết ơn và tin tưởng mà chúng ta dành cho nhau. Trong từng nụ cười, cái bắt tay hay hành động nhỏ bé, ta đều thấy sự ấm áp của tình đồng đội và sự tận tâm vì cộng đồng. Chúng ta tự hào khi được khoác trên mình màu áo HNI – màu của sự đoàn kết, yêu thương và phụng sự. Mỗi giọt mồ hôi rơi, mỗi việc làm ý nghĩa đều thể hiện niềm tin vững chắc rằng khi trái tim cùng chung nhịp đập, chúng ta sẽ tạo nên những giá trị tốt đẹp lâu dài. Ngày Chủ Nhật Hồng vì thế không chỉ là một sự kiện, mà còn là biểu tượng của sự biết ơn – biết ơn cuộc sống, biết ơn cộng đồng và biết ơn những người đồng hành. Tinh thần “sống là cho đi” luôn thôi thúc mỗi thành viên HNI dấn thân hết mình, không ngại khó khăn, chỉ mong mang lại nụ cười và hạnh phúc cho nhiều người hơn nữa. Sự gắn kết và sẻ chia đã làm nên sức mạnh, để từ đó chúng ta càng thêm vững bước, tin tưởng và yêu thương nhau nhiều hơn. Ngày Chủ Nhật Hồng lan tỏa – nhắc nhở chúng ta tiếp tục sống với lòng biết ơn, phụng sự và cống hiến. Với HNI, đó chính là niềm tự hào bất tận, là hành trình đẹp đẽ mà mỗi chúng ta đều đang cùng nhau viết nên bằng tất cả trái tim. Đọc thêm Đọc thêm
    Like
    Love
    Haha
    10
    1 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10:CHƯƠNG 20: Bài học từ các triều đại hưng – vong trong lịch sử Việt Nam và thế giới
    (Thuộc tác phẩm chính trị – triết học về “Dân là gốc của mọi quyền lực”)
    I. Mọi triều đại đều có chu kỳ sinh – thịnh – suy – vong
    Trong lịch sử nhân loại, không một đế chế nào là vĩnh cửu.
    Từ những triều đại hùng mạnh nhất như La Mã, Đường, Minh, đến Đại Việt thời Lý – Trần – Lê, tất cả đều đi qua cùng một quy luật: khi lòng dân thuận – thiên hạ thịnh, khi lòng dân ly tán – cơ đồ nghiêng đổ.
    Sự hưng thịnh không đến ngẫu nhiên, và sự sụp đổ cũng không phải do một biến cố đơn lẻ. Đó là quá trình tích tụ – từ sự khai mở của trí dân, đến sự băng hoại của quyền lực, từ chính danh của người lãnh đạo, đến sự tha hóa của tập đoàn cai trị.
    Đạo Trời không bao giờ đứng về phe mạnh – Trời chỉ đứng về phe của lẽ phải và lòng dân.
    Đó là định luật mà mọi triều đại, dù ở Đông hay Tây, đều phải tuân theo.
    II. Bài học từ các triều đại Việt Nam
    1. Nhà Lý – Thời thịnh trị của lòng nhân và niềm tin
    Triều Lý (1009–1225) mở đầu bằng một quyết định mang tính Đạo: Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long– nơi “rồng bay lên”, đất tụ khí thiêng sông núi.
    Nhưng cái vĩ đại không chỉ ở tầm nhìn địa chính trị, mà ở tư tưởng nhân trị: lấy Phật giáo làm nền tảng đạo đức, lấy dân làm gốc của thiên hạ.
    Dưới triều Lý, dân được an cư, học hành được mở rộng, pháp luật đi đôi với lòng nhân. Lý Thánh Tông từng nói: “Thương dân như con đỏ, trị nước lấy nhân nghĩa làm gốc.”
    Đó là giai đoạn Đạo và Chính hòa làm một, quyền lực thuận Trời, thuận Dân.
    Nhưng đến cuối triều, quyền lực bị chiếm giữ bởi hoạn quan và dòng tộc, vua Lý Huệ Tông lâm vào điên loạn, nhân tâm ly tán – cơ đồ nhà Lý sụp đổ.
    Bài học: Một triều đại thịnh trị khi lòng dân được kính trọng, nhưng sẽ tàn khi triều đình xem dân như công cụ.
    2. Nhà Trần – Khi đoàn kết và nghĩa lớn làm nên chiến thắng
    Nhà Trần (1225–1400) ra đời trong thời biến động, nhưng chính lòng dân đã tạo nên sức mạnh vô song.
    Ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông không chỉ là chiến công quân sự, mà là biểu tượng của trí dân, khí dân, lòng dân.
    Trần Hưng Đạo hiểu rõ điều đó hơn ai hết: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước.”

    Đọc thêm

    HNI 27/10:CHƯƠNG 20: Bài học từ các triều đại hưng – vong trong lịch sử Việt Nam và thế giới (Thuộc tác phẩm chính trị – triết học về “Dân là gốc của mọi quyền lực”) I. Mọi triều đại đều có chu kỳ sinh – thịnh – suy – vong Trong lịch sử nhân loại, không một đế chế nào là vĩnh cửu. Từ những triều đại hùng mạnh nhất như La Mã, Đường, Minh, đến Đại Việt thời Lý – Trần – Lê, tất cả đều đi qua cùng một quy luật: khi lòng dân thuận – thiên hạ thịnh, khi lòng dân ly tán – cơ đồ nghiêng đổ. Sự hưng thịnh không đến ngẫu nhiên, và sự sụp đổ cũng không phải do một biến cố đơn lẻ. Đó là quá trình tích tụ – từ sự khai mở của trí dân, đến sự băng hoại của quyền lực, từ chính danh của người lãnh đạo, đến sự tha hóa của tập đoàn cai trị. Đạo Trời không bao giờ đứng về phe mạnh – Trời chỉ đứng về phe của lẽ phải và lòng dân. Đó là định luật mà mọi triều đại, dù ở Đông hay Tây, đều phải tuân theo. II. Bài học từ các triều đại Việt Nam 1. Nhà Lý – Thời thịnh trị của lòng nhân và niềm tin Triều Lý (1009–1225) mở đầu bằng một quyết định mang tính Đạo: Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long– nơi “rồng bay lên”, đất tụ khí thiêng sông núi. Nhưng cái vĩ đại không chỉ ở tầm nhìn địa chính trị, mà ở tư tưởng nhân trị: lấy Phật giáo làm nền tảng đạo đức, lấy dân làm gốc của thiên hạ. Dưới triều Lý, dân được an cư, học hành được mở rộng, pháp luật đi đôi với lòng nhân. Lý Thánh Tông từng nói: “Thương dân như con đỏ, trị nước lấy nhân nghĩa làm gốc.” Đó là giai đoạn Đạo và Chính hòa làm một, quyền lực thuận Trời, thuận Dân. Nhưng đến cuối triều, quyền lực bị chiếm giữ bởi hoạn quan và dòng tộc, vua Lý Huệ Tông lâm vào điên loạn, nhân tâm ly tán – cơ đồ nhà Lý sụp đổ. Bài học: Một triều đại thịnh trị khi lòng dân được kính trọng, nhưng sẽ tàn khi triều đình xem dân như công cụ. 2. Nhà Trần – Khi đoàn kết và nghĩa lớn làm nên chiến thắng Nhà Trần (1225–1400) ra đời trong thời biến động, nhưng chính lòng dân đã tạo nên sức mạnh vô song. Ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông không chỉ là chiến công quân sự, mà là biểu tượng của trí dân, khí dân, lòng dân. Trần Hưng Đạo hiểu rõ điều đó hơn ai hết: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước.” Đọc thêm 
    Love
    Like
    Wow
    14
    2 Bình luận 0 Chia sẽ
  • https://youtu.be/A21IaA0umuM?si=IKtS23o6VlGUYkHQ
    https://youtu.be/A21IaA0umuM?si=IKtS23o6VlGUYkHQ
    Like
    Love
    10
    1 Bình luận 0 Chia sẽ
  • TỰ HÀO MỘT CON NGƯỜI – LÊ ĐÌNH HẢI

    Giữa muôn lối đời, sáng lên ngọn lửa,
    Một con người – tấm gương soi giữa đời.
    Lê Đình Hải, với tấm lòng rạng rỡ,
    Dẫn đường H’GROUP – vững bước sáng ngời.

    Anh mang chí lớn – khơi nguồn đổi mới,
    Một HNI – kết nối những con tim.
    Từ ý tưởng hóa thành bao khát vọng,
    Trao niềm tin, gieo hạnh phúc đi tìm.

    Vì sức khỏe – anh vun từng hạt giống,
    Vì tương lai – anh dựng những ngày mai.
    Hạnh phúc đến từ bàn tay và trái tim nóng,
    Đức và tài – hòa nhịp ánh ban mai.

    Người thủ lĩnh – không chỉ là người dẫn dắt,
    Mà là ngọn đuốc thắp sáng lòng người.
    Mỗi bước chân – là niềm tin, là sức bật,
    Cho triệu trái tim cùng hướng một chân trời.

    H’GROUP vươn xa – tựa cánh chim bay,
    HNI lan tỏa – ánh sáng mỗi ngày.
    Một con người – một niềm tin bền vững,
    Tự hào Lê Đình Hải – sáng mãi trong tim này!
    TỰ HÀO MỘT CON NGƯỜI – LÊ ĐÌNH HẢI Giữa muôn lối đời, sáng lên ngọn lửa, Một con người – tấm gương soi giữa đời. Lê Đình Hải, với tấm lòng rạng rỡ, Dẫn đường H’GROUP – vững bước sáng ngời. Anh mang chí lớn – khơi nguồn đổi mới, Một HNI – kết nối những con tim. Từ ý tưởng hóa thành bao khát vọng, Trao niềm tin, gieo hạnh phúc đi tìm. Vì sức khỏe – anh vun từng hạt giống, Vì tương lai – anh dựng những ngày mai. Hạnh phúc đến từ bàn tay và trái tim nóng, Đức và tài – hòa nhịp ánh ban mai. Người thủ lĩnh – không chỉ là người dẫn dắt, Mà là ngọn đuốc thắp sáng lòng người. Mỗi bước chân – là niềm tin, là sức bật, Cho triệu trái tim cùng hướng một chân trời. H’GROUP vươn xa – tựa cánh chim bay, HNI lan tỏa – ánh sáng mỗi ngày. Một con người – một niềm tin bền vững, Tự hào Lê Đình Hải – sáng mãi trong tim này!
    Like
    Love
    Angry
    9
    1 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 26/10 - B40 BÀI THƠ CHƯƠNG 3 : LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM

    Từ thuở hồng hoang lời ca vọng núi,
    Tiếng trống đồng ngân, điệu hát cội nguồn.
    Chữ chưa thành, nhưng hồn dân tộc,
    Đã gieo vào ca dao, tục ngữ muôn phương.
    Qua nghìn năm gươm giáo phong sương,
    Dân ta vẫn viết bằng xương bằng máu.
    Truyện Lý, Trần – hùng ca giữ nước,
    Thơ Nam quốc sơn hà khẳng định giang sơn.

    Ánh sao Khuất Nguyên rọi sáng đất Việt,
    Nguyễn Trãi đề thơ chan chứa lòng dân.
    Từ Truyện Kiều ngàn năm còn vọng,
    Tiếng Nguyễn Du làm rúng động thế nhân.

    Từng trang viết chở hồn sông núi,
    Văn học ta – sử thi của đời thường.
    Dù đô hộ, vẫn còn mạch sống,
    Chữ quốc ngữ sáng đường khai minh.

    Văn học Việt – gương soi vận mệnh,
    Từ ca dao đến bản trường ca.
    Mỗi vần thơ là một chứng nhân,
    Ghi dấu bước đi của dân tộc ta.
    HNI 26/10 - B40 📕 BÀI THƠ CHƯƠNG 3 : LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM Từ thuở hồng hoang lời ca vọng núi, Tiếng trống đồng ngân, điệu hát cội nguồn. Chữ chưa thành, nhưng hồn dân tộc, Đã gieo vào ca dao, tục ngữ muôn phương. Qua nghìn năm gươm giáo phong sương, Dân ta vẫn viết bằng xương bằng máu. Truyện Lý, Trần – hùng ca giữ nước, Thơ Nam quốc sơn hà khẳng định giang sơn. Ánh sao Khuất Nguyên rọi sáng đất Việt, Nguyễn Trãi đề thơ chan chứa lòng dân. Từ Truyện Kiều ngàn năm còn vọng, Tiếng Nguyễn Du làm rúng động thế nhân. Từng trang viết chở hồn sông núi, Văn học ta – sử thi của đời thường. Dù đô hộ, vẫn còn mạch sống, Chữ quốc ngữ sáng đường khai minh. Văn học Việt – gương soi vận mệnh, Từ ca dao đến bản trường ca. Mỗi vần thơ là một chứng nhân, Ghi dấu bước đi của dân tộc ta.
    Like
    Love
    Wow
    Haha
    Sad
    13
    9 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10
    PHẦN V: SỰ LAN TỎA CỦA NIỀM TIN
    CHƯƠNG 41: HẠT GIỐNG TỪ MỘT NIỀM TIN
    MỞ ĐẦU: NIỀM TIN KHÔNG BAO GIỜ ĐƠN ĐỘC
    Khi một người khởi sự gieo niềm tin trong lòng mình, điều đó hiếm khi chỉ dừng lại ở bản thân họ. Niềm tin giống như ánh sáng của một ngọn nến, không bao giờ bị tắt đi khi được chia sẻ, mà ngược lại, nó còn thắp sáng thêm nhiều ngọn nến khác. Trong chương này, chúng ta sẽ đi sâu vào cách niềm tin, từ một hạt giống nhỏ bé, có thể lan tỏa và làm thay đổi không chỉ một cá nhân, mà cả cộng đồng và xã hội.
    Câu hỏi đặt ra: Làm sao một hạt giống niềm tin nhỏ bé có thể trở thành một cánh rừng bạt ngàn, tạo nên bóng mát cho cả thế hệ?
    1. HẠT GIỐNG NHỎ BÉ – KHỞI NGUỒN CỦA MỌI BIẾN CHUYỂN
    Niềm tin ban đầu thường rất mong manh. Nó có thể khởi nguồn từ một câu chuyện, một bài học, một lời khuyên, hoặc thậm chí chỉ từ một ánh mắt động viên. Nhưng chính từ sự khởi đầu tưởng chừng nhỏ bé ấy, cả một hành trình thay đổi có thể bắt đầu.
    Hãy tưởng tượng một người nông dân nghèo tin rằng nếu học cách trồng trọt khoa học, mùa màng sẽ bội thu hơn. Từ niềm tin ấy, ông kiên trì học hỏi, thử nghiệm. Kết quả ban đầu có thể chưa như mong đợi, nhưng theo thời gian, ông gặt hái thành quả. Người xung quanh nhìn thấy sự đổi thay, họ bắt đầu bắt chước, rồi dần cả làng thay đổi. Một hạt giống ban đầu đã trở thành sức mạnh cộng đồng.
    Câu chuyện này cũng đúng với những đổi thay lớn trong lịch sử. Martin Luther King Jr. chỉ bắt đầu từ niềm tin rằng con người phải được sống trong công bằng, không phân biệt màu da. Nelson Mandela tin rằng sự tự do và bình đẳng là quyền cơ bản của dân tộc Nam Phi. Những niềm tin ban đầu ấy không chỉ làm thay đổi số phận cá nhân, mà còn viết lại cả trang sử của nhân loại.
    2. SỨC LAN TỎA CỦA NIỀM TIN
    Niềm tin có tính chất lan truyền tự nhiên, giống như ngọn lửa lan qua từng cây đuốc. Nó không cần sự gượng ép, bởi khi một người thực sự tin tưởng, sự tin tưởng ấy tỏa ra trong từng cử chỉ, từng lời nói, từng ánh mắt.
    Trong môi trường giáo dục: Một thầy cô tin rằng học trò của mình có tiềm năng sẽ truyền cảm hứng để các em học tập. Thậm chí chỉ cần một lời nói “Thầy tin em làm được” cũng có thể thay đổi cả tương lai của một đứa trẻ.
    Đọc thêm
    Đọc ít hơn

    Đọc thêm
    HNI 27/10 PHẦN V: SỰ LAN TỎA CỦA NIỀM TIN CHƯƠNG 41: HẠT GIỐNG TỪ MỘT NIỀM TIN MỞ ĐẦU: NIỀM TIN KHÔNG BAO GIỜ ĐƠN ĐỘC Khi một người khởi sự gieo niềm tin trong lòng mình, điều đó hiếm khi chỉ dừng lại ở bản thân họ. Niềm tin giống như ánh sáng của một ngọn nến, không bao giờ bị tắt đi khi được chia sẻ, mà ngược lại, nó còn thắp sáng thêm nhiều ngọn nến khác. Trong chương này, chúng ta sẽ đi sâu vào cách niềm tin, từ một hạt giống nhỏ bé, có thể lan tỏa và làm thay đổi không chỉ một cá nhân, mà cả cộng đồng và xã hội. Câu hỏi đặt ra: Làm sao một hạt giống niềm tin nhỏ bé có thể trở thành một cánh rừng bạt ngàn, tạo nên bóng mát cho cả thế hệ? 1. HẠT GIỐNG NHỎ BÉ – KHỞI NGUỒN CỦA MỌI BIẾN CHUYỂN Niềm tin ban đầu thường rất mong manh. Nó có thể khởi nguồn từ một câu chuyện, một bài học, một lời khuyên, hoặc thậm chí chỉ từ một ánh mắt động viên. Nhưng chính từ sự khởi đầu tưởng chừng nhỏ bé ấy, cả một hành trình thay đổi có thể bắt đầu. Hãy tưởng tượng một người nông dân nghèo tin rằng nếu học cách trồng trọt khoa học, mùa màng sẽ bội thu hơn. Từ niềm tin ấy, ông kiên trì học hỏi, thử nghiệm. Kết quả ban đầu có thể chưa như mong đợi, nhưng theo thời gian, ông gặt hái thành quả. Người xung quanh nhìn thấy sự đổi thay, họ bắt đầu bắt chước, rồi dần cả làng thay đổi. Một hạt giống ban đầu đã trở thành sức mạnh cộng đồng. Câu chuyện này cũng đúng với những đổi thay lớn trong lịch sử. Martin Luther King Jr. chỉ bắt đầu từ niềm tin rằng con người phải được sống trong công bằng, không phân biệt màu da. Nelson Mandela tin rằng sự tự do và bình đẳng là quyền cơ bản của dân tộc Nam Phi. Những niềm tin ban đầu ấy không chỉ làm thay đổi số phận cá nhân, mà còn viết lại cả trang sử của nhân loại. 2. SỨC LAN TỎA CỦA NIỀM TIN Niềm tin có tính chất lan truyền tự nhiên, giống như ngọn lửa lan qua từng cây đuốc. Nó không cần sự gượng ép, bởi khi một người thực sự tin tưởng, sự tin tưởng ấy tỏa ra trong từng cử chỉ, từng lời nói, từng ánh mắt. Trong môi trường giáo dục: Một thầy cô tin rằng học trò của mình có tiềm năng sẽ truyền cảm hứng để các em học tập. Thậm chí chỉ cần một lời nói “Thầy tin em làm được” cũng có thể thay đổi cả tương lai của một đứa trẻ. Đọc thêm Đọc ít hơn Đọc thêm
    Like
    Love
    Wow
    Haha
    Angry
    15
    11 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 26/10 - CHƯƠNG 15: VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN – THƠ CA CÁCH MẠNG

    1. MỞ ĐẦU – THƠ CA TRONG BÃO LỬA LỊCH SỬ

    Văn học Việt Nam thế kỷ XX ghi dấu một giai đoạn đặc biệt: hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đây là những năm tháng mà cả dân tộc dốc toàn lực cho độc lập, tự do. Trong bối cảnh ấy, thơ ca không chỉ là nghệ thuật, mà còn là vũ khí tinh thần, là tiếng gọi từ trái tim hàng triệu con người. Thơ ca kháng chiến đã trở thành “khí giới không tiếng nổ” nhưng sức mạnh thì vô cùng to lớn: nó khơi dậy niềm tin, hun đúc lòng yêu nước, động viên ý chí, và biến mỗi vần thơ thành ngọn lửa truyền lửa chiến đấu.
    Nếu trong thời trung đại, văn học chủ yếu gắn với đạo lý và hình tượng anh hùng, thì sang thế kỷ XX, văn học kháng chiến gắn trực tiếp với vận mệnh dân tộc. Thơ ca cách mạng trở thành bản trường ca bất tận của lòng dân.

    2. Bối cảnh hình thành thơ ca kháng chiến
    Thơ ca kháng chiến ra đời trong những biến động dữ dội của lịch sử. Có thể chia thành hai giai đoạn lớn:
    Kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954): Từ sau Cách mạng tháng Tám, đất nước vừa giành độc lập đã phải bước vào cuộc chiến chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Văn nghệ sĩ theo tiếng gọi của Tổ quốc đã hòa mình vào đời sống nhân dân, sáng tác thơ ca mang đậm hơi thở chiến trường.
    Kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975): Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đất nước chia cắt. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài hơn 20 năm là cuộc chiến đấu gian khổ, khốc liệt nhưng cũng hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc. Thơ ca giai đoạn này mang tính sử thi mạnh mẽ, vừa ca ngợi, vừa phản ánh chân thực hiện thực chiến tranh.
    Trong cả hai giai đoạn, thơ ca luôn đi trước, đi cùng và đi sau bước chân chiến sĩ, người dân, trở thành tiếng hát đồng hành với cách mạng.
    3. Đặc điểm nổi bật của thơ ca kháng chiến
    (1) Tính chiến đấu cao độ
    Thơ ca không chỉ là để thưởng thức, mà là lời kêu gọi, là vũ khí tinh thần. Mỗi vần thơ đều mang sức nặng của trách nhiệm với Tổ quốc, khích lệ tinh thần chiến sĩ
    HNI 26/10 - CHƯƠNG 15: VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN – THƠ CA CÁCH MẠNG 1. MỞ ĐẦU – THƠ CA TRONG BÃO LỬA LỊCH SỬ Văn học Việt Nam thế kỷ XX ghi dấu một giai đoạn đặc biệt: hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đây là những năm tháng mà cả dân tộc dốc toàn lực cho độc lập, tự do. Trong bối cảnh ấy, thơ ca không chỉ là nghệ thuật, mà còn là vũ khí tinh thần, là tiếng gọi từ trái tim hàng triệu con người. Thơ ca kháng chiến đã trở thành “khí giới không tiếng nổ” nhưng sức mạnh thì vô cùng to lớn: nó khơi dậy niềm tin, hun đúc lòng yêu nước, động viên ý chí, và biến mỗi vần thơ thành ngọn lửa truyền lửa chiến đấu. Nếu trong thời trung đại, văn học chủ yếu gắn với đạo lý và hình tượng anh hùng, thì sang thế kỷ XX, văn học kháng chiến gắn trực tiếp với vận mệnh dân tộc. Thơ ca cách mạng trở thành bản trường ca bất tận của lòng dân. 2. Bối cảnh hình thành thơ ca kháng chiến Thơ ca kháng chiến ra đời trong những biến động dữ dội của lịch sử. Có thể chia thành hai giai đoạn lớn: Kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954): Từ sau Cách mạng tháng Tám, đất nước vừa giành độc lập đã phải bước vào cuộc chiến chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Văn nghệ sĩ theo tiếng gọi của Tổ quốc đã hòa mình vào đời sống nhân dân, sáng tác thơ ca mang đậm hơi thở chiến trường. Kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975): Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đất nước chia cắt. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài hơn 20 năm là cuộc chiến đấu gian khổ, khốc liệt nhưng cũng hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc. Thơ ca giai đoạn này mang tính sử thi mạnh mẽ, vừa ca ngợi, vừa phản ánh chân thực hiện thực chiến tranh. Trong cả hai giai đoạn, thơ ca luôn đi trước, đi cùng và đi sau bước chân chiến sĩ, người dân, trở thành tiếng hát đồng hành với cách mạng. 3. Đặc điểm nổi bật của thơ ca kháng chiến (1) Tính chiến đấu cao độ Thơ ca không chỉ là để thưởng thức, mà là lời kêu gọi, là vũ khí tinh thần. Mỗi vần thơ đều mang sức nặng của trách nhiệm với Tổ quốc, khích lệ tinh thần chiến sĩ
    Like
    Love
    Yay
    9
    7 Bình luận 0 Chia sẽ
  • https://youtu.be/Vr8mNL_tWyw?si=BCqUblJuo9SRFK8T
    https://youtu.be/Vr8mNL_tWyw?si=BCqUblJuo9SRFK8T
    Like
    Haha
    Angry
    9
    9 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10 - CHƯƠNG 15: VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN – THƠ CA CÁCH MẠNG

    1. MỞ ĐẦU – THƠ CA TRONG BÃO LỬA LỊCH SỬ

    Văn học Việt Nam thế kỷ XX ghi dấu một giai đoạn đặc biệt: hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đây là những năm tháng mà cả dân tộc dốc toàn lực cho độc lập, tự do. Trong bối cảnh ấy, thơ ca không chỉ là nghệ thuật, mà còn là vũ khí tinh thần, là tiếng gọi từ trái tim hàng triệu con người. Thơ ca kháng chiến đã trở thành “khí giới không tiếng nổ” nhưng sức mạnh thì vô cùng to lớn: nó khơi dậy niềm tin, hun đúc lòng yêu nước, động viên ý chí, và biến mỗi vần thơ thành ngọn lửa truyền lửa chiến đấu.
    Nếu trong thời trung đại, văn học chủ yếu gắn với đạo lý và hình tượng anh hùng, thì sang thế kỷ XX, văn học kháng chiến gắn trực tiếp với vận mệnh dân tộc. Thơ ca cách mạng trở thành bản trường ca bất tận của lòng dân.

    2. Bối cảnh hình thành thơ ca kháng chiến
    Thơ ca kháng chiến ra đời trong những biến động dữ dội của lịch sử. Có thể chia thành hai giai đoạn lớn:
    Kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954): Từ sau Cách mạng tháng Tám, đất nước vừa giành độc lập đã phải bước vào cuộc chiến chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Văn nghệ sĩ theo tiếng gọi của Tổ quốc đã hòa mình vào đời sống nhân dân, sáng tác thơ ca mang đậm hơi thở chiến trường.
    Kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975): Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đất nước chia cắt. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài hơn 20 năm là cuộc chiến đấu gian khổ, khốc liệt nhưng cũng hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc. Thơ ca giai đoạn này mang tính sử thi mạnh mẽ, vừa ca ngợi, vừa phản ánh chân thực hiện thực chiến tranh.
    Trong cả hai giai đoạn, thơ ca luôn đi trước, đi cùng và đi sau bước chân chiến sĩ, người dân, trở thành tiếng hát đồng hành với cách mạng.
    3. Đặc điểm nổi bật của thơ ca kháng chiến
    (1) Tính chiến đấu cao độ
    Thơ ca không chỉ là để thưởng thức, mà là lời kêu gọi, là vũ khí tinh thần. Mỗi vần thơ đều mang sức nặng của trách nhiệm với Tổ quốc, khích lệ tinh thần chiến sĩ.
    (2)
    Đọc thêm




    HNI 27/10 - CHƯƠNG 15: VĂN HỌC KHÁNG CHIẾN – THƠ CA CÁCH MẠNG 1. MỞ ĐẦU – THƠ CA TRONG BÃO LỬA LỊCH SỬ Văn học Việt Nam thế kỷ XX ghi dấu một giai đoạn đặc biệt: hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đây là những năm tháng mà cả dân tộc dốc toàn lực cho độc lập, tự do. Trong bối cảnh ấy, thơ ca không chỉ là nghệ thuật, mà còn là vũ khí tinh thần, là tiếng gọi từ trái tim hàng triệu con người. Thơ ca kháng chiến đã trở thành “khí giới không tiếng nổ” nhưng sức mạnh thì vô cùng to lớn: nó khơi dậy niềm tin, hun đúc lòng yêu nước, động viên ý chí, và biến mỗi vần thơ thành ngọn lửa truyền lửa chiến đấu. Nếu trong thời trung đại, văn học chủ yếu gắn với đạo lý và hình tượng anh hùng, thì sang thế kỷ XX, văn học kháng chiến gắn trực tiếp với vận mệnh dân tộc. Thơ ca cách mạng trở thành bản trường ca bất tận của lòng dân. 2. Bối cảnh hình thành thơ ca kháng chiến Thơ ca kháng chiến ra đời trong những biến động dữ dội của lịch sử. Có thể chia thành hai giai đoạn lớn: Kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954): Từ sau Cách mạng tháng Tám, đất nước vừa giành độc lập đã phải bước vào cuộc chiến chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Văn nghệ sĩ theo tiếng gọi của Tổ quốc đã hòa mình vào đời sống nhân dân, sáng tác thơ ca mang đậm hơi thở chiến trường. Kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975): Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đất nước chia cắt. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài hơn 20 năm là cuộc chiến đấu gian khổ, khốc liệt nhưng cũng hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc. Thơ ca giai đoạn này mang tính sử thi mạnh mẽ, vừa ca ngợi, vừa phản ánh chân thực hiện thực chiến tranh. Trong cả hai giai đoạn, thơ ca luôn đi trước, đi cùng và đi sau bước chân chiến sĩ, người dân, trở thành tiếng hát đồng hành với cách mạng. 3. Đặc điểm nổi bật của thơ ca kháng chiến (1) Tính chiến đấu cao độ Thơ ca không chỉ là để thưởng thức, mà là lời kêu gọi, là vũ khí tinh thần. Mỗi vần thơ đều mang sức nặng của trách nhiệm với Tổ quốc, khích lệ tinh thần chiến sĩ. (2) Đọc thêm 
    Like
    Love
    Wow
    Sad
    15
    10 Bình luận 0 Chia sẽ