• TRẢ LỜI CÂU ĐỐ BUỔI CHIỀU NGÀY 27/10
    Đề 1: Khi bị Gout (gút) thì chế độ ăn uống đóng vai trò rất quan trọng bên cạnh việc điều trị y khoa. Dưới đây là những thực phẩm nên ăn và nên tránh khi có gút — bạn có thể dùng làm tham khảo và nhớ trao đổi với bác sĩ hoặc chuyên gia dinh dưỡng để cá...
    Like
    Love
    Sad
    7
    1 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 6:
    BÀI THƠ: CHÍNH DANH – NỀN TẢNG CỦA MỌI CHẾ ĐỘ BỀN VỮNG
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính danh là gốc của muôn điều trị quốc,
    Không danh chính, lời nói hóa hư không.
    Ngai vàng dựng trên cát, sớm muộn cũng tan,
    Chỉ danh nghĩa chính mới trường tồn cùng Đạo.
    Người lãnh đạo chẳng vì mình mà lập danh,
    Mà vì dân, vì nghĩa, vì cội nguồn nhân loại.
    Một danh xưng chỉ sáng khi lòng trong suốt,
    Khi quyền lực gắn cùng đạo lý và nhân tâm.
    Danh không thật – vỏ rỗng của quyền uy,
    Gió thoảng qua, cuốn theo cả ngai và ấn.
    Chính danh – là danh từ Trời ban, dân thuận,
    Là ánh sáng soi đường giữa thời loạn mịt mù.
    Khi chính danh, lời vua cũng là lời Dân,
    Mệnh Trời hợp, nước tự nhiên hưng thịnh.
    Khi giả danh, lời người chỉ là vọng tưởng,
    Trời ngoảnh mặt, dân oán, quốc suy tàn.
    Chính danh chẳng cần ngôi cao mà có đạo,
    Một người ngay cũng làm gương cho ngàn thế hệ.
    Không danh mà chính – dân vẫn nghe, vẫn tin,
    Có danh mà tà – dân vẫn tránh, vẫn nghi.
    Bậc minh quân hiểu sâu hai chữ “chính danh”,
    Không tranh ngôi, chỉ dựng trật tự của Trời.
    Biết đặt dân lên trước, bản thân lùi lại,
    Chính ngay trong tâm – danh tự nhiên sáng rực.
    Khi vua không chính, quần thần hóa loạn,
    Khi quan giả danh, phép nước tan tành.
    Một triều đại tồn vong không bởi pháp,
    Mà bởi lòng dân có thuận danh hay không.
    Chính danh là chiếc cầu giữa Trời và người,
    Là sợi chỉ nối đạo lý cùng quyền lực.
    Cầu ấy gãy – nước nhà chìm trong hỗn loạn,
    Cầu ấy vững – quốc gia mãi trường tồn.
    Không chính danh, ngàn lời răn vô nghĩa,
    Không chính danh, hiền tài chẳng được dùng.
    Chính danh là gốc rễ của lòng tin xã hội,
    Là nền đá cho mọi triều đại vươn xa.
    Bởi thế, ai cầm quyền hãy tự hỏi chính mình:
    Danh ta có hợp đạo, hợp lòng dân chăng?
    Nếu danh hư mà vẫn giữ – là nghịch Trời,
    Nếu danh thật mà dám lui – ấy là thuận Đạo.
    Chính danh không phải chỉ ở ngôi vua,
    Mỗi người dân đều mang danh nghĩa của mình.
    Khi danh và thực thống nhất, xã hội bình an,
    Khi danh và thực ly tan, thời thế đảo điên.
    Ý thơ khép lại:
    Chính danh – ấy là gốc của muôn đời trị quốc,
    Một chữ “Chính” giữ yên cả vũ trụ nhân sinh.
    Danh chính, ngôi vững, đạo hưng, dân thịnh,
    Không chính danh – thì cả Trời cũng quay lưng.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ chương 6: BÀI THƠ: CHÍNH DANH – NỀN TẢNG CỦA MỌI CHẾ ĐỘ BỀN VỮNG Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Chính danh là gốc của muôn điều trị quốc, Không danh chính, lời nói hóa hư không. Ngai vàng dựng trên cát, sớm muộn cũng tan, Chỉ danh nghĩa chính mới trường tồn cùng Đạo. Người lãnh đạo chẳng vì mình mà lập danh, Mà vì dân, vì nghĩa, vì cội nguồn nhân loại. Một danh xưng chỉ sáng khi lòng trong suốt, Khi quyền lực gắn cùng đạo lý và nhân tâm. Danh không thật – vỏ rỗng của quyền uy, Gió thoảng qua, cuốn theo cả ngai và ấn. Chính danh – là danh từ Trời ban, dân thuận, Là ánh sáng soi đường giữa thời loạn mịt mù. Khi chính danh, lời vua cũng là lời Dân, Mệnh Trời hợp, nước tự nhiên hưng thịnh. Khi giả danh, lời người chỉ là vọng tưởng, Trời ngoảnh mặt, dân oán, quốc suy tàn. Chính danh chẳng cần ngôi cao mà có đạo, Một người ngay cũng làm gương cho ngàn thế hệ. Không danh mà chính – dân vẫn nghe, vẫn tin, Có danh mà tà – dân vẫn tránh, vẫn nghi. Bậc minh quân hiểu sâu hai chữ “chính danh”, Không tranh ngôi, chỉ dựng trật tự của Trời. Biết đặt dân lên trước, bản thân lùi lại, Chính ngay trong tâm – danh tự nhiên sáng rực. Khi vua không chính, quần thần hóa loạn, Khi quan giả danh, phép nước tan tành. Một triều đại tồn vong không bởi pháp, Mà bởi lòng dân có thuận danh hay không. Chính danh là chiếc cầu giữa Trời và người, Là sợi chỉ nối đạo lý cùng quyền lực. Cầu ấy gãy – nước nhà chìm trong hỗn loạn, Cầu ấy vững – quốc gia mãi trường tồn. Không chính danh, ngàn lời răn vô nghĩa, Không chính danh, hiền tài chẳng được dùng. Chính danh là gốc rễ của lòng tin xã hội, Là nền đá cho mọi triều đại vươn xa. Bởi thế, ai cầm quyền hãy tự hỏi chính mình: Danh ta có hợp đạo, hợp lòng dân chăng? Nếu danh hư mà vẫn giữ – là nghịch Trời, Nếu danh thật mà dám lui – ấy là thuận Đạo. Chính danh không phải chỉ ở ngôi vua, Mỗi người dân đều mang danh nghĩa của mình. Khi danh và thực thống nhất, xã hội bình an, Khi danh và thực ly tan, thời thế đảo điên. Ý thơ khép lại: Chính danh – ấy là gốc của muôn đời trị quốc, Một chữ “Chính” giữ yên cả vũ trụ nhân sinh. Danh chính, ngôi vững, đạo hưng, dân thịnh, Không chính danh – thì cả Trời cũng quay lưng.
    Like
    Love
    Wow
    8
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 5:
    Sự Khác Biệt Giữa Quyền Lực Ép Buộc Và Quyền Lực Đạo Lý
    Quyền lực ép buộc dựng trên nỗi sợ,
    Còn quyền lực đạo lý lớn lên từ lòng tin.
    Một bên trói buộc thân xác con người,
    Một bên đánh thức linh hồn nhân nghĩa.
    Kẻ dùng bạo lực để trị dân,
    Chỉ được vâng lời, không được tôn kính.
    Người dùng đạo để cảm hóa lòng dân,
    Dù không nói một lời, thiên hạ cũng thuận theo.
    Ép buộc khiến người cúi đầu ngoài mặt,
    Nhưng trong tim vẫn giữ ngọn lửa phản kháng.
    Đạo lý khiến người cúi đầu tự nguyện,
    Bởi thấy trong đó ánh sáng của công tâm.
    Quyền lực ép buộc tồn tại nhờ gươm giáo,
    Quyền lực đạo lý sống bằng uy đức vô hình.
    Một bên dựng tường cao để che sợ hãi,
    Một bên mở cửa rộng để đón niềm tin.
    Người ép dân bằng lệnh, dân nghe mà oán,
    Người dẫn dân bằng gương, dân theo mà thương.
    Kẻ thống trị tin sức mạnh,
    Bậc hiền nhân tin vào đạo lý.
    Ép buộc khiến xã hội im lặng,
    Đạo lý khiến xã hội an hòa.
    Im lặng là bóng tối của sợ hãi,
    An hòa là ánh sáng của trí minh.
    Quyền lực ép buộc là tạm thời,
    Như ngọn đèn dầu trước bão.
    Quyền lực đạo lý là vĩnh cửu,
    Như mặt trời soi khắp muôn phương.
    Khi người cầm quyền hiểu rằng đạo đức là sức mạnh,
    Thì họ không cần vũ lực để giữ ngai vàng.
    Khi người cầm quyền dựa vào sợ hãi,
    Thì Trời đã ghi tên họ trong sổ phạt.
    Bởi Trời không trao quyền cho kẻ cưỡng ép,
    Trời chỉ ban mệnh cho người thuận Đạo.
    Ép buộc khiến quyền tan như cát bụi,
    Đạo lý khiến quyền sáng như sao trời.
    Hỡi kẻ đang nắm quyền, hãy tự hỏi lòng mình:
    Ngươi khiến dân sợ, hay khiến dân kính?
    Bởi câu trả lời ấy –
    Sẽ định đoạt ngươi thuộc về Đạo Trời hay Đạo diệt.
    HNI 27/10: 📕 Bài thơ chương 5: Sự Khác Biệt Giữa Quyền Lực Ép Buộc Và Quyền Lực Đạo Lý Quyền lực ép buộc dựng trên nỗi sợ, Còn quyền lực đạo lý lớn lên từ lòng tin. Một bên trói buộc thân xác con người, Một bên đánh thức linh hồn nhân nghĩa. Kẻ dùng bạo lực để trị dân, Chỉ được vâng lời, không được tôn kính. Người dùng đạo để cảm hóa lòng dân, Dù không nói một lời, thiên hạ cũng thuận theo. Ép buộc khiến người cúi đầu ngoài mặt, Nhưng trong tim vẫn giữ ngọn lửa phản kháng. Đạo lý khiến người cúi đầu tự nguyện, Bởi thấy trong đó ánh sáng của công tâm. Quyền lực ép buộc tồn tại nhờ gươm giáo, Quyền lực đạo lý sống bằng uy đức vô hình. Một bên dựng tường cao để che sợ hãi, Một bên mở cửa rộng để đón niềm tin. Người ép dân bằng lệnh, dân nghe mà oán, Người dẫn dân bằng gương, dân theo mà thương. Kẻ thống trị tin sức mạnh, Bậc hiền nhân tin vào đạo lý. Ép buộc khiến xã hội im lặng, Đạo lý khiến xã hội an hòa. Im lặng là bóng tối của sợ hãi, An hòa là ánh sáng của trí minh. Quyền lực ép buộc là tạm thời, Như ngọn đèn dầu trước bão. Quyền lực đạo lý là vĩnh cửu, Như mặt trời soi khắp muôn phương. Khi người cầm quyền hiểu rằng đạo đức là sức mạnh, Thì họ không cần vũ lực để giữ ngai vàng. Khi người cầm quyền dựa vào sợ hãi, Thì Trời đã ghi tên họ trong sổ phạt. Bởi Trời không trao quyền cho kẻ cưỡng ép, Trời chỉ ban mệnh cho người thuận Đạo. Ép buộc khiến quyền tan như cát bụi, Đạo lý khiến quyền sáng như sao trời. Hỡi kẻ đang nắm quyền, hãy tự hỏi lòng mình: Ngươi khiến dân sợ, hay khiến dân kính? Bởi câu trả lời ấy – Sẽ định đoạt ngươi thuộc về Đạo Trời hay Đạo diệt.
    Like
    Love
    Yay
    9
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 7:
    BÀI THƠ: THIÊN Ý VÀ LÒNG DÂN – HAI CHIỀU THỐNG NHẤT TRONG CHÍNH TRỊ
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Trời chẳng nói, nhưng lòng dân là tiếng,
    Nghe dân kêu, ấy chính tiếng của Trời.
    Thiên ý chẳng xa, chẳng ẩn nơi mây trắng,
    Mà hiện trong từng nhịp thở của nhân gian.
    Khi dân an, Trời cũng mỉm cười hiền hậu,
    Khi dân khổ, Trời nghiêng lệ xuống nhân gian.
    Người cầm quyền nếu trái lòng dân,
    Tức nghịch Trời – muôn loài đều phản lại.
    Thiên ý và lòng dân, hai mà một,
    Như Trời cùng Đất hòa hợp thành sinh khí.
    Dân thuận thì nước yên, đạo sáng,
    Dân oán thì Trời cũng chẳng bênh ai.
    Bậc minh quân biết lắng nghe điều nhỏ,
    Một tiếng thở than cũng xem như mệnh Trời.
    Không dùng gươm, chẳng cần mưu, chẳng cần trị,
    Chỉ thuận lòng dân – vạn sự hóa an nhiên.
    Kẻ ngu quyền tưởng Trời xa vời vợi,
    Không hay Trời ẩn ngay trong mắt dân.
    Một ánh nhìn, một giọt lệ, một niềm tin,
    Là thước đo cho đạo lý của quyền lực.
    Khi Trời ban mệnh không phải ban ngai,
    Mà ban trọng trách gìn giữ lòng nhân ái.
    Khi dân trao niềm tin không phải vì sợ,
    Mà vì thấy đạo trong tâm người lãnh đạo.
    Thiên ý chẳng nằm trong lễ nghi cung kính,
    Mà trong cách quan nhìn dân bằng đôi mắt thật.
    Một lời chân hơn vạn điều sắc dụ,
    Một nghĩa tình hơn trăm đạo chiếu ban.
    Khi Trời muốn chuyển, dân trước khẽ động,
    Như sóng ngầm báo hiệu cơn phong ba.
    Bậc hiểu Đạo biết nhìn trong tĩnh lặng,
    Để sửa mình, chứ chẳng trách Trời cao.
    Ngôi vua giữ được không nhờ gươm sắc,
    Mà nhờ lòng dân kết lại thành tường đồng.
    Khi Trời và dân cùng hướng một phương,
    Thì nước vững – dù muôn cơn giông tố.
    Kết:
    Thiên ý và lòng dân – hai chiều cùng một Đạo,
    Trời gửi lòng dân để soi sáng đường đời.
    Kẻ biết thuận, chính trị hóa nhân hòa,
    Kẻ nghịch Trời, nghịch dân – tự diệt chính mình.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ chương 7: BÀI THƠ: THIÊN Ý VÀ LÒNG DÂN – HAI CHIỀU THỐNG NHẤT TRONG CHÍNH TRỊ Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Trời chẳng nói, nhưng lòng dân là tiếng, Nghe dân kêu, ấy chính tiếng của Trời. Thiên ý chẳng xa, chẳng ẩn nơi mây trắng, Mà hiện trong từng nhịp thở của nhân gian. Khi dân an, Trời cũng mỉm cười hiền hậu, Khi dân khổ, Trời nghiêng lệ xuống nhân gian. Người cầm quyền nếu trái lòng dân, Tức nghịch Trời – muôn loài đều phản lại. Thiên ý và lòng dân, hai mà một, Như Trời cùng Đất hòa hợp thành sinh khí. Dân thuận thì nước yên, đạo sáng, Dân oán thì Trời cũng chẳng bênh ai. Bậc minh quân biết lắng nghe điều nhỏ, Một tiếng thở than cũng xem như mệnh Trời. Không dùng gươm, chẳng cần mưu, chẳng cần trị, Chỉ thuận lòng dân – vạn sự hóa an nhiên. Kẻ ngu quyền tưởng Trời xa vời vợi, Không hay Trời ẩn ngay trong mắt dân. Một ánh nhìn, một giọt lệ, một niềm tin, Là thước đo cho đạo lý của quyền lực. Khi Trời ban mệnh không phải ban ngai, Mà ban trọng trách gìn giữ lòng nhân ái. Khi dân trao niềm tin không phải vì sợ, Mà vì thấy đạo trong tâm người lãnh đạo. Thiên ý chẳng nằm trong lễ nghi cung kính, Mà trong cách quan nhìn dân bằng đôi mắt thật. Một lời chân hơn vạn điều sắc dụ, Một nghĩa tình hơn trăm đạo chiếu ban. Khi Trời muốn chuyển, dân trước khẽ động, Như sóng ngầm báo hiệu cơn phong ba. Bậc hiểu Đạo biết nhìn trong tĩnh lặng, Để sửa mình, chứ chẳng trách Trời cao. Ngôi vua giữ được không nhờ gươm sắc, Mà nhờ lòng dân kết lại thành tường đồng. Khi Trời và dân cùng hướng một phương, Thì nước vững – dù muôn cơn giông tố. Kết: Thiên ý và lòng dân – hai chiều cùng một Đạo, Trời gửi lòng dân để soi sáng đường đời. Kẻ biết thuận, chính trị hóa nhân hòa, Kẻ nghịch Trời, nghịch dân – tự diệt chính mình.
    Like
    Love
    Haha
    8
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 6:
    BÀI THƠ: CHÍNH DANH – NỀN TẢNG CỦA MỌI CHẾ ĐỘ BỀN VỮNG
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính danh là gốc của muôn điều trị quốc,
    Không danh chính, lời nói hóa hư không.
    Ngai vàng dựng trên cát, sớm muộn cũng tan,
    Chỉ danh nghĩa chính mới trường tồn cùng Đạo.
    Người lãnh đạo chẳng vì mình mà lập danh,
    Mà vì dân, vì nghĩa, vì cội nguồn nhân loại.
    Một danh xưng chỉ sáng khi lòng trong suốt,
    Khi quyền lực gắn cùng đạo lý và nhân tâm.
    Danh không thật – vỏ rỗng của quyền uy,
    Gió thoảng qua, cuốn theo cả ngai và ấn.
    Chính danh – là danh từ Trời ban, dân thuận,
    Là ánh sáng soi đường giữa thời loạn mịt mù.
    Khi chính danh, lời vua cũng là lời Dân,
    Mệnh Trời hợp, nước tự nhiên hưng thịnh.
    Khi giả danh, lời người chỉ là vọng tưởng,
    Trời ngoảnh mặt, dân oán, quốc suy tàn.
    Chính danh chẳng cần ngôi cao mà có đạo,
    Một người ngay cũng làm gương cho ngàn thế hệ.
    Không danh mà chính – dân vẫn nghe, vẫn tin,
    Có danh mà tà – dân vẫn tránh, vẫn nghi.
    Bậc minh quân hiểu sâu hai chữ “chính danh”,
    Không tranh ngôi, chỉ dựng trật tự của Trời.
    Biết đặt dân lên trước, bản thân lùi lại,
    Chính ngay trong tâm – danh tự nhiên sáng rực.
    Khi vua không chính, quần thần hóa loạn,
    Khi quan giả danh, phép nước tan tành.
    Một triều đại tồn vong không bởi pháp,
    Mà bởi lòng dân có thuận danh hay không.
    Chính danh là chiếc cầu giữa Trời và người,
    Là sợi chỉ nối đạo lý cùng quyền lực.
    Cầu ấy gãy – nước nhà chìm trong hỗn loạn,
    Cầu ấy vững – quốc gia mãi trường tồn.
    Không chính danh, ngàn lời răn vô nghĩa,
    Không chính danh, hiền tài chẳng được dùng.
    Chính danh là gốc rễ của lòng tin xã hội,
    Là nền đá cho mọi triều đại vươn xa.
    Bởi thế, ai cầm quyền hãy tự hỏi chính mình:
    Danh ta có hợp đạo, hợp lòng dân chăng?
    Nếu danh hư mà vẫn giữ – là nghịch Trời,
    Nếu danh thật mà dám lui – ấy là thuận Đạo.
    Chính danh không phải chỉ ở ngôi vua,
    Mỗi người dân đều mang danh nghĩa của mình.
    Khi danh và thực thống nhất, xã hội bình an,
    Khi danh và thực ly tan, thời thế đảo điên.
    Ý thơ khép lại:
    Chính danh – ấy là gốc của muôn đời trị quốc,
    Một chữ “Chính” giữ yên cả vũ trụ nhân sinh.
    Danh chính, ngôi vững, đạo hưng, dân thịnh,
    Không chính danh – thì cả Trời cũng quay lưng.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ chương 6: BÀI THƠ: CHÍNH DANH – NỀN TẢNG CỦA MỌI CHẾ ĐỘ BỀN VỮNG Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Chính danh là gốc của muôn điều trị quốc, Không danh chính, lời nói hóa hư không. Ngai vàng dựng trên cát, sớm muộn cũng tan, Chỉ danh nghĩa chính mới trường tồn cùng Đạo. Người lãnh đạo chẳng vì mình mà lập danh, Mà vì dân, vì nghĩa, vì cội nguồn nhân loại. Một danh xưng chỉ sáng khi lòng trong suốt, Khi quyền lực gắn cùng đạo lý và nhân tâm. Danh không thật – vỏ rỗng của quyền uy, Gió thoảng qua, cuốn theo cả ngai và ấn. Chính danh – là danh từ Trời ban, dân thuận, Là ánh sáng soi đường giữa thời loạn mịt mù. Khi chính danh, lời vua cũng là lời Dân, Mệnh Trời hợp, nước tự nhiên hưng thịnh. Khi giả danh, lời người chỉ là vọng tưởng, Trời ngoảnh mặt, dân oán, quốc suy tàn. Chính danh chẳng cần ngôi cao mà có đạo, Một người ngay cũng làm gương cho ngàn thế hệ. Không danh mà chính – dân vẫn nghe, vẫn tin, Có danh mà tà – dân vẫn tránh, vẫn nghi. Bậc minh quân hiểu sâu hai chữ “chính danh”, Không tranh ngôi, chỉ dựng trật tự của Trời. Biết đặt dân lên trước, bản thân lùi lại, Chính ngay trong tâm – danh tự nhiên sáng rực. Khi vua không chính, quần thần hóa loạn, Khi quan giả danh, phép nước tan tành. Một triều đại tồn vong không bởi pháp, Mà bởi lòng dân có thuận danh hay không. Chính danh là chiếc cầu giữa Trời và người, Là sợi chỉ nối đạo lý cùng quyền lực. Cầu ấy gãy – nước nhà chìm trong hỗn loạn, Cầu ấy vững – quốc gia mãi trường tồn. Không chính danh, ngàn lời răn vô nghĩa, Không chính danh, hiền tài chẳng được dùng. Chính danh là gốc rễ của lòng tin xã hội, Là nền đá cho mọi triều đại vươn xa. Bởi thế, ai cầm quyền hãy tự hỏi chính mình: Danh ta có hợp đạo, hợp lòng dân chăng? Nếu danh hư mà vẫn giữ – là nghịch Trời, Nếu danh thật mà dám lui – ấy là thuận Đạo. Chính danh không phải chỉ ở ngôi vua, Mỗi người dân đều mang danh nghĩa của mình. Khi danh và thực thống nhất, xã hội bình an, Khi danh và thực ly tan, thời thế đảo điên. Ý thơ khép lại: Chính danh – ấy là gốc của muôn đời trị quốc, Một chữ “Chính” giữ yên cả vũ trụ nhân sinh. Danh chính, ngôi vững, đạo hưng, dân thịnh, Không chính danh – thì cả Trời cũng quay lưng.
    Like
    Love
    Wow
    8
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10:
    Bài thơ chương 3:
    Quyền Lực Và Trách Nhiệm – Hai Mặt Của Cùng Một Đạo
    Quyền lực là ngọn lửa, soi sáng hay thiêu rụi?
    Tùy bàn tay người giữ, là thánh nhân hay quỷ dữ?
    Một khi có quyền mà quên đi đạo,
    Thì chính mình sẽ bị thiêu trong ngọn lửa do mình nhóm lên.
    Trách nhiệm là bóng, luôn đi cùng ánh sáng,
    Quyền lực rực rỡ bao nhiêu, bóng ấy càng dài bấy nhiêu.
    Người chỉ thấy vinh quang mà quên nghĩa vụ,
    Thì Đạo đã rời đi, chỉ còn lại chiếc ngai rỗng không.
    Đạo Trời không cấm con người nắm quyền,
    Nhưng răn rằng: “Hãy biết vì ai mà cầm giữ.”
    Quyền sinh ra để phục vụ nhân dân,
    Trách nhiệm sinh ra để giữ lòng mình không lạc.
    Có quyền mà không gánh, quyền ấy vô nghĩa,
    Có gánh mà không quyền, trách ấy vô năng.
    Chỉ khi quyền và trách hòa làm một thể,
    Người lãnh đạo mới thật sự thuận theo Đạo Trời.
    Quyền là con dao hai lưỡi – sáng cho công lý,
    Nhưng chỉ một nghiêng lệch, sẽ rạch nát lòng dân.
    Trách nhiệm là sợi dây vô hình,
    Giữ cho quyền lực không rơi vào vực tối.
    Người cầm quyền biết sợ, mới giữ được thiên tâm,
    Kẻ cầm quyền ngạo mạn, sớm rời thiên vị.
    Trời chẳng phạt bằng sấm sét hay gươm đao,
    Mà phạt bằng sự cô độc của kẻ mất lòng dân.
    Trách nhiệm không là gánh nặng,
    Mà là thước đo của lương tâm khi có quyền.
    Người biết sợ chính mình, mới xứng đáng được tin,
    Người quên sợ Trời, sẽ mất tất cả.
    Khi quyền lực tìm đến để thử lòng người,
    Chính trách nhiệm là phép thử của linh hồn.
    Khi trách nhiệm dẫn đường cho quyền lực,
    Thì Đạo hiện ra – sáng như bình minh.
    Đạo không ở ngai vàng,
    Đạo ở trong từng hành động nhỏ.
    Khi người cầm quyền cúi đầu vì dân,
    Chính là lúc Trời nâng họ lên.
    Quyền lực và trách nhiệm – hai mặt của cùng một Đạo,
    Tách nhau ra, Đạo vỡ tan thành hỗn loạn.
    Hợp lại, Đạo trở nên tròn đầy như mặt trăng,
    Soi chiếu lòng người, và dẫn dắt nhân gian.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ chương 3: Quyền Lực Và Trách Nhiệm – Hai Mặt Của Cùng Một Đạo Quyền lực là ngọn lửa, soi sáng hay thiêu rụi? Tùy bàn tay người giữ, là thánh nhân hay quỷ dữ? Một khi có quyền mà quên đi đạo, Thì chính mình sẽ bị thiêu trong ngọn lửa do mình nhóm lên. Trách nhiệm là bóng, luôn đi cùng ánh sáng, Quyền lực rực rỡ bao nhiêu, bóng ấy càng dài bấy nhiêu. Người chỉ thấy vinh quang mà quên nghĩa vụ, Thì Đạo đã rời đi, chỉ còn lại chiếc ngai rỗng không. Đạo Trời không cấm con người nắm quyền, Nhưng răn rằng: “Hãy biết vì ai mà cầm giữ.” Quyền sinh ra để phục vụ nhân dân, Trách nhiệm sinh ra để giữ lòng mình không lạc. Có quyền mà không gánh, quyền ấy vô nghĩa, Có gánh mà không quyền, trách ấy vô năng. Chỉ khi quyền và trách hòa làm một thể, Người lãnh đạo mới thật sự thuận theo Đạo Trời. Quyền là con dao hai lưỡi – sáng cho công lý, Nhưng chỉ một nghiêng lệch, sẽ rạch nát lòng dân. Trách nhiệm là sợi dây vô hình, Giữ cho quyền lực không rơi vào vực tối. Người cầm quyền biết sợ, mới giữ được thiên tâm, Kẻ cầm quyền ngạo mạn, sớm rời thiên vị. Trời chẳng phạt bằng sấm sét hay gươm đao, Mà phạt bằng sự cô độc của kẻ mất lòng dân. Trách nhiệm không là gánh nặng, Mà là thước đo của lương tâm khi có quyền. Người biết sợ chính mình, mới xứng đáng được tin, Người quên sợ Trời, sẽ mất tất cả. Khi quyền lực tìm đến để thử lòng người, Chính trách nhiệm là phép thử của linh hồn. Khi trách nhiệm dẫn đường cho quyền lực, Thì Đạo hiện ra – sáng như bình minh. Đạo không ở ngai vàng, Đạo ở trong từng hành động nhỏ. Khi người cầm quyền cúi đầu vì dân, Chính là lúc Trời nâng họ lên. Quyền lực và trách nhiệm – hai mặt của cùng một Đạo, Tách nhau ra, Đạo vỡ tan thành hỗn loạn. Hợp lại, Đạo trở nên tròn đầy như mặt trăng, Soi chiếu lòng người, và dẫn dắt nhân gian. Đọc ít hơn
    Like
    Love
    6
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 8:
    BÀI THƠ: CHÍNH TRỊ NHƯ NGHỆ THUẬT ĐIỀU HÒA NĂNG LƯỢNG CỘNG ĐỒNG
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính trị chẳng phải trò quyền biến đoạt danh,
    Mà là nghệ thuật điều hòa lòng người, năng lượng.
    Không gươm giáo, chẳng mưu sâu kế hiểm,
    Chỉ một nhịp tâm an – cũng hóa bình thiên hạ.
    Nơi cộng đồng, năng lượng xoay vòng như mạch,
    Lúc thịnh, lúc suy – như thuỷ triều vơi đầy.
    Bậc trị quốc không cưỡng, không vội ép,
    Mà thuận dòng – đưa nước chảy về sông.
    Chính trị, nếu chỉ thấy quyền trong danh lợi,
    Sẽ biến dân thành công cụ cho một người.
    Nhưng khi hiểu quyền là luồng năng lượng sống,
    Thì lãnh đạo là người truyền dẫn yêu thương.
    Người lãnh đạo như người giữ nhịp đàn,
    Biết nâng cao khi lòng dân đang trỗi.
    Biết hạ xuống khi hận thù vừa dậy sóng,
    Để âm vang cộng đồng lại trở nên hài hòa.
    Mỗi tiếng nói, mỗi hành động là rung động,
    Chính trị là nghệ thuật cảm nhận tần số dân.
    Người trị thế không nghe bằng tai, bằng mắt,
    Mà nghe bằng lòng – thấy bằng ánh sáng trong.
    Có khi cần nói, nhưng nhiều khi cần lặng,
    Vì năng lượng dân làn sóng chẳng cần lời.
    Một quyết định sai có thể lay trời đất,
    Một im lặng đúng – giữ vững cả non sông.
    Năng lượng cộng đồng – ấy là ý Trời trong dân,
    Bậc lãnh đạo chỉ là người dẫn luồng khí ấy.
    Không chiếm, không nắm, không khống chế,
    Mà khai thông – để Đạo tự vận hành.
    Chính trị là giữ cân bằng giữa âm và dương,
    Giữa hành động và tĩnh tâm trong trí.
    Khi dân nóng, cần người biết làm mát,
    Khi dân lạnh, cần người nhóm lửa nhân tâm.
    Không ai trị được dân bằng ép buộc,
    Chỉ người hòa được dân bằng năng lượng yêu thương.
    Quyền lực chân chính là quyền của sự lắng nghe,
    Và chính trị viên là người điều khí của lòng người.
    Kết:
    Chính trị là nghệ thuật – không phải cuộc tranh quyền,
    Là điều hòa nguồn năng lượng chung nhân loại.
    Khi mỗi trái tim cùng rung trong tần số Đạo,
    Thì quốc gia yên – mà chẳng cần tới gươm đao.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ chương 8: BÀI THƠ: CHÍNH TRỊ NHƯ NGHỆ THUẬT ĐIỀU HÒA NĂNG LƯỢNG CỘNG ĐỒNG Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Chính trị chẳng phải trò quyền biến đoạt danh, Mà là nghệ thuật điều hòa lòng người, năng lượng. Không gươm giáo, chẳng mưu sâu kế hiểm, Chỉ một nhịp tâm an – cũng hóa bình thiên hạ. Nơi cộng đồng, năng lượng xoay vòng như mạch, Lúc thịnh, lúc suy – như thuỷ triều vơi đầy. Bậc trị quốc không cưỡng, không vội ép, Mà thuận dòng – đưa nước chảy về sông. Chính trị, nếu chỉ thấy quyền trong danh lợi, Sẽ biến dân thành công cụ cho một người. Nhưng khi hiểu quyền là luồng năng lượng sống, Thì lãnh đạo là người truyền dẫn yêu thương. Người lãnh đạo như người giữ nhịp đàn, Biết nâng cao khi lòng dân đang trỗi. Biết hạ xuống khi hận thù vừa dậy sóng, Để âm vang cộng đồng lại trở nên hài hòa. Mỗi tiếng nói, mỗi hành động là rung động, Chính trị là nghệ thuật cảm nhận tần số dân. Người trị thế không nghe bằng tai, bằng mắt, Mà nghe bằng lòng – thấy bằng ánh sáng trong. Có khi cần nói, nhưng nhiều khi cần lặng, Vì năng lượng dân làn sóng chẳng cần lời. Một quyết định sai có thể lay trời đất, Một im lặng đúng – giữ vững cả non sông. Năng lượng cộng đồng – ấy là ý Trời trong dân, Bậc lãnh đạo chỉ là người dẫn luồng khí ấy. Không chiếm, không nắm, không khống chế, Mà khai thông – để Đạo tự vận hành. Chính trị là giữ cân bằng giữa âm và dương, Giữa hành động và tĩnh tâm trong trí. Khi dân nóng, cần người biết làm mát, Khi dân lạnh, cần người nhóm lửa nhân tâm. Không ai trị được dân bằng ép buộc, Chỉ người hòa được dân bằng năng lượng yêu thương. Quyền lực chân chính là quyền của sự lắng nghe, Và chính trị viên là người điều khí của lòng người. Kết: Chính trị là nghệ thuật – không phải cuộc tranh quyền, Là điều hòa nguồn năng lượng chung nhân loại. Khi mỗi trái tim cùng rung trong tần số Đạo, Thì quốc gia yên – mà chẳng cần tới gươm đao.
    Like
    Love
    Angry
    9
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 7:
    BÀI THƠ: THIÊN Ý VÀ LÒNG DÂN – HAI CHIỀU THỐNG NHẤT TRONG CHÍNH TRỊ
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Trời chẳng nói, nhưng lòng dân là tiếng,
    Nghe dân kêu, ấy chính tiếng của Trời.
    Thiên ý chẳng xa, chẳng ẩn nơi mây trắng,
    Mà hiện trong từng nhịp thở của nhân gian.
    Khi dân an, Trời cũng mỉm cười hiền hậu,
    Khi dân khổ, Trời nghiêng lệ xuống nhân gian.
    Người cầm quyền nếu trái lòng dân,
    Tức nghịch Trời – muôn loài đều phản lại.
    Thiên ý và lòng dân, hai mà một,
    Như Trời cùng Đất hòa hợp thành sinh khí.
    Dân thuận thì nước yên, đạo sáng,
    Dân oán thì Trời cũng chẳng bênh ai.
    Bậc minh quân biết lắng nghe điều nhỏ,
    Một tiếng thở than cũng xem như mệnh Trời.
    Không dùng gươm, chẳng cần mưu, chẳng cần trị,
    Chỉ thuận lòng dân – vạn sự hóa an nhiên.
    Kẻ ngu quyền tưởng Trời xa vời vợi,
    Không hay Trời ẩn ngay trong mắt dân.
    Một ánh nhìn, một giọt lệ, một niềm tin,
    Là thước đo cho đạo lý của quyền lực.
    Khi Trời ban mệnh không phải ban ngai,
    Mà ban trọng trách gìn giữ lòng nhân ái.
    Khi dân trao niềm tin không phải vì sợ,
    Mà vì thấy đạo trong tâm người lãnh đạo.
    Thiên ý chẳng nằm trong lễ nghi cung kính,
    Mà trong cách quan nhìn dân bằng đôi mắt thật.
    Một lời chân hơn vạn điều sắc dụ,
    Một nghĩa tình hơn trăm đạo chiếu ban.
    Khi Trời muốn chuyển, dân trước khẽ động,
    Như sóng ngầm báo hiệu cơn phong ba.
    Bậc hiểu Đạo biết nhìn trong tĩnh lặng,
    Để sửa mình, chứ chẳng trách Trời cao.
    Ngôi vua giữ được không nhờ gươm sắc,
    Mà nhờ lòng dân kết lại thành tường đồng.
    Khi Trời và dân cùng hướng một phương,
    Thì nước vững – dù muôn cơn giông tố.
    Kết:
    Thiên ý và lòng dân – hai chiều cùng một Đạo,
    Trời gửi lòng dân để soi sáng đường đời.
    Kẻ biết thuận, chính trị hóa nhân hòa,
    Kẻ nghịch Trời, nghịch dân – tự diệt chính mình.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ chương 7: BÀI THƠ: THIÊN Ý VÀ LÒNG DÂN – HAI CHIỀU THỐNG NHẤT TRONG CHÍNH TRỊ Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Trời chẳng nói, nhưng lòng dân là tiếng, Nghe dân kêu, ấy chính tiếng của Trời. Thiên ý chẳng xa, chẳng ẩn nơi mây trắng, Mà hiện trong từng nhịp thở của nhân gian. Khi dân an, Trời cũng mỉm cười hiền hậu, Khi dân khổ, Trời nghiêng lệ xuống nhân gian. Người cầm quyền nếu trái lòng dân, Tức nghịch Trời – muôn loài đều phản lại. Thiên ý và lòng dân, hai mà một, Như Trời cùng Đất hòa hợp thành sinh khí. Dân thuận thì nước yên, đạo sáng, Dân oán thì Trời cũng chẳng bênh ai. Bậc minh quân biết lắng nghe điều nhỏ, Một tiếng thở than cũng xem như mệnh Trời. Không dùng gươm, chẳng cần mưu, chẳng cần trị, Chỉ thuận lòng dân – vạn sự hóa an nhiên. Kẻ ngu quyền tưởng Trời xa vời vợi, Không hay Trời ẩn ngay trong mắt dân. Một ánh nhìn, một giọt lệ, một niềm tin, Là thước đo cho đạo lý của quyền lực. Khi Trời ban mệnh không phải ban ngai, Mà ban trọng trách gìn giữ lòng nhân ái. Khi dân trao niềm tin không phải vì sợ, Mà vì thấy đạo trong tâm người lãnh đạo. Thiên ý chẳng nằm trong lễ nghi cung kính, Mà trong cách quan nhìn dân bằng đôi mắt thật. Một lời chân hơn vạn điều sắc dụ, Một nghĩa tình hơn trăm đạo chiếu ban. Khi Trời muốn chuyển, dân trước khẽ động, Như sóng ngầm báo hiệu cơn phong ba. Bậc hiểu Đạo biết nhìn trong tĩnh lặng, Để sửa mình, chứ chẳng trách Trời cao. Ngôi vua giữ được không nhờ gươm sắc, Mà nhờ lòng dân kết lại thành tường đồng. Khi Trời và dân cùng hướng một phương, Thì nước vững – dù muôn cơn giông tố. Kết: Thiên ý và lòng dân – hai chiều cùng một Đạo, Trời gửi lòng dân để soi sáng đường đời. Kẻ biết thuận, chính trị hóa nhân hòa, Kẻ nghịch Trời, nghịch dân – tự diệt chính mình.
    Like
    Love
    Wow
    Sad
    9
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 8:
    BÀI THƠ: CHÍNH TRỊ NHƯ NGHỆ THUẬT ĐIỀU HÒA NĂNG LƯỢNG CỘNG ĐỒNG
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính trị chẳng phải trò quyền biến đoạt danh,
    Mà là nghệ thuật điều hòa lòng người, năng lượng.
    Không gươm giáo, chẳng mưu sâu kế hiểm,
    Chỉ một nhịp tâm an – cũng hóa bình thiên hạ.
    Nơi cộng đồng, năng lượng xoay vòng như mạch,
    Lúc thịnh, lúc suy – như thuỷ triều vơi đầy.
    Bậc trị quốc không cưỡng, không vội ép,
    Mà thuận dòng – đưa nước chảy về sông.
    Chính trị, nếu chỉ thấy quyền trong danh lợi,
    Sẽ biến dân thành công cụ cho một người.
    Nhưng khi hiểu quyền là luồng năng lượng sống,
    Thì lãnh đạo là người truyền dẫn yêu thương.
    Người lãnh đạo như người giữ nhịp đàn,
    Biết nâng cao khi lòng dân đang trỗi.
    Biết hạ xuống khi hận thù vừa dậy sóng,
    Để âm vang cộng đồng lại trở nên hài hòa.
    Mỗi tiếng nói, mỗi hành động là rung động,
    Chính trị là nghệ thuật cảm nhận tần số dân.
    Người trị thế không nghe bằng tai, bằng mắt,
    Mà nghe bằng lòng – thấy bằng ánh sáng trong.
    Có khi cần nói, nhưng nhiều khi cần lặng,
    Vì năng lượng dân làn sóng chẳng cần lời.
    Một quyết định sai có thể lay trời đất,
    Một im lặng đúng – giữ vững cả non sông.
    Năng lượng cộng đồng – ấy là ý Trời trong dân,
    Bậc lãnh đạo chỉ là người dẫn luồng khí ấy.
    Không chiếm, không nắm, không khống chế,
    Mà khai thông – để Đạo tự vận hành.
    Chính trị là giữ cân bằng giữa âm và dương,
    Giữa hành động và tĩnh tâm trong trí.
    Khi dân nóng, cần người biết làm mát,
    Khi dân lạnh, cần người nhóm lửa nhân tâm.
    Không ai trị được dân bằng ép buộc,
    Chỉ người hòa được dân bằng năng lượng yêu thương.
    Quyền lực chân chính là quyền của sự lắng nghe,
    Và chính trị viên là người điều khí của lòng người.
    Kết:
    Chính trị là nghệ thuật – không phải cuộc tranh quyền,
    Là điều hòa nguồn năng lượng chung nhân loại.
    Khi mỗi trái tim cùng rung trong tần số Đạo,
    Thì quốc gia yên – mà chẳng cần tới gươm đao.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ chương 8: BÀI THƠ: CHÍNH TRỊ NHƯ NGHỆ THUẬT ĐIỀU HÒA NĂNG LƯỢNG CỘNG ĐỒNG Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Chính trị chẳng phải trò quyền biến đoạt danh, Mà là nghệ thuật điều hòa lòng người, năng lượng. Không gươm giáo, chẳng mưu sâu kế hiểm, Chỉ một nhịp tâm an – cũng hóa bình thiên hạ. Nơi cộng đồng, năng lượng xoay vòng như mạch, Lúc thịnh, lúc suy – như thuỷ triều vơi đầy. Bậc trị quốc không cưỡng, không vội ép, Mà thuận dòng – đưa nước chảy về sông. Chính trị, nếu chỉ thấy quyền trong danh lợi, Sẽ biến dân thành công cụ cho một người. Nhưng khi hiểu quyền là luồng năng lượng sống, Thì lãnh đạo là người truyền dẫn yêu thương. Người lãnh đạo như người giữ nhịp đàn, Biết nâng cao khi lòng dân đang trỗi. Biết hạ xuống khi hận thù vừa dậy sóng, Để âm vang cộng đồng lại trở nên hài hòa. Mỗi tiếng nói, mỗi hành động là rung động, Chính trị là nghệ thuật cảm nhận tần số dân. Người trị thế không nghe bằng tai, bằng mắt, Mà nghe bằng lòng – thấy bằng ánh sáng trong. Có khi cần nói, nhưng nhiều khi cần lặng, Vì năng lượng dân làn sóng chẳng cần lời. Một quyết định sai có thể lay trời đất, Một im lặng đúng – giữ vững cả non sông. Năng lượng cộng đồng – ấy là ý Trời trong dân, Bậc lãnh đạo chỉ là người dẫn luồng khí ấy. Không chiếm, không nắm, không khống chế, Mà khai thông – để Đạo tự vận hành. Chính trị là giữ cân bằng giữa âm và dương, Giữa hành động và tĩnh tâm trong trí. Khi dân nóng, cần người biết làm mát, Khi dân lạnh, cần người nhóm lửa nhân tâm. Không ai trị được dân bằng ép buộc, Chỉ người hòa được dân bằng năng lượng yêu thương. Quyền lực chân chính là quyền của sự lắng nghe, Và chính trị viên là người điều khí của lòng người. Kết: Chính trị là nghệ thuật – không phải cuộc tranh quyền, Là điều hòa nguồn năng lượng chung nhân loại. Khi mỗi trái tim cùng rung trong tần số Đạo, Thì quốc gia yên – mà chẳng cần tới gươm đao.
    Like
    Love
    Wow
    8
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 7:
    BÀI THƠ: THIÊN Ý VÀ LÒNG DÂN – HAI CHIỀU THỐNG NHẤT TRONG CHÍNH TRỊ
    Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải
    Trời chẳng nói, nhưng lòng dân là tiếng,
    Nghe dân kêu, ấy chính tiếng của Trời.
    Thiên ý chẳng xa, chẳng ẩn nơi mây trắng,
    Mà hiện trong từng nhịp thở của nhân gian.
    Khi dân an, Trời cũng mỉm cười hiền hậu,
    Khi dân khổ, Trời nghiêng lệ xuống nhân gian.
    Người cầm quyền nếu trái lòng dân,
    Tức nghịch Trời – muôn loài đều phản lại.
    Thiên ý và lòng dân, hai mà một,
    Như Trời cùng Đất hòa hợp thành sinh khí.
    Dân thuận thì nước yên, đạo sáng,
    Dân oán thì Trời cũng chẳng bênh ai.
    Bậc minh quân biết lắng nghe điều nhỏ,
    Một tiếng thở than cũng xem như mệnh Trời.
    Không dùng gươm, chẳng cần mưu, chẳng cần trị,
    Chỉ thuận lòng dân – vạn sự hóa an nhiên.
    Kẻ ngu quyền tưởng Trời xa vời vợi,
    Không hay Trời ẩn ngay trong mắt dân.
    Một ánh nhìn, một giọt lệ, một niềm tin,
    Là thước đo cho đạo lý của quyền lực.
    Khi Trời ban mệnh không phải ban ngai,
    Mà ban trọng trách gìn giữ lòng nhân ái.
    Khi dân trao niềm tin không phải vì sợ,
    Mà vì thấy đạo trong tâm người lãnh đạo.
    Thiên ý chẳng nằm trong lễ nghi cung kính,
    Mà trong cách quan nhìn dân bằng đôi mắt thật.
    Một lời chân hơn vạn điều sắc dụ,
    Một nghĩa tình hơn trăm đạo chiếu ban.
    Khi Trời muốn chuyển, dân trước khẽ động,
    Như sóng ngầm báo hiệu cơn phong ba.
    Bậc hiểu Đạo biết nhìn trong tĩnh lặng,
    Để sửa mình, chứ chẳng trách Trời cao.
    Ngôi vua giữ được không nhờ gươm sắc,
    Mà nhờ lòng dân kết lại thành tường đồng.
    Khi Trời và dân cùng hướng một phương,
    Thì nước vững – dù muôn cơn giông tố.
    Kết:
    Thiên ý và lòng dân – hai chiều cùng một Đạo,
    Trời gửi lòng dân để soi sáng đường đời.
    Kẻ biết thuận, chính trị hóa nhân hòa,
    Kẻ nghịch Trời, nghịch dân – tự diệt chính mình.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ chương 7: BÀI THƠ: THIÊN Ý VÀ LÒNG DÂN – HAI CHIỀU THỐNG NHẤT TRONG CHÍNH TRỊ Tác giả: Henry Lê – Lê Đình Hải Trời chẳng nói, nhưng lòng dân là tiếng, Nghe dân kêu, ấy chính tiếng của Trời. Thiên ý chẳng xa, chẳng ẩn nơi mây trắng, Mà hiện trong từng nhịp thở của nhân gian. Khi dân an, Trời cũng mỉm cười hiền hậu, Khi dân khổ, Trời nghiêng lệ xuống nhân gian. Người cầm quyền nếu trái lòng dân, Tức nghịch Trời – muôn loài đều phản lại. Thiên ý và lòng dân, hai mà một, Như Trời cùng Đất hòa hợp thành sinh khí. Dân thuận thì nước yên, đạo sáng, Dân oán thì Trời cũng chẳng bênh ai. Bậc minh quân biết lắng nghe điều nhỏ, Một tiếng thở than cũng xem như mệnh Trời. Không dùng gươm, chẳng cần mưu, chẳng cần trị, Chỉ thuận lòng dân – vạn sự hóa an nhiên. Kẻ ngu quyền tưởng Trời xa vời vợi, Không hay Trời ẩn ngay trong mắt dân. Một ánh nhìn, một giọt lệ, một niềm tin, Là thước đo cho đạo lý của quyền lực. Khi Trời ban mệnh không phải ban ngai, Mà ban trọng trách gìn giữ lòng nhân ái. Khi dân trao niềm tin không phải vì sợ, Mà vì thấy đạo trong tâm người lãnh đạo. Thiên ý chẳng nằm trong lễ nghi cung kính, Mà trong cách quan nhìn dân bằng đôi mắt thật. Một lời chân hơn vạn điều sắc dụ, Một nghĩa tình hơn trăm đạo chiếu ban. Khi Trời muốn chuyển, dân trước khẽ động, Như sóng ngầm báo hiệu cơn phong ba. Bậc hiểu Đạo biết nhìn trong tĩnh lặng, Để sửa mình, chứ chẳng trách Trời cao. Ngôi vua giữ được không nhờ gươm sắc, Mà nhờ lòng dân kết lại thành tường đồng. Khi Trời và dân cùng hướng một phương, Thì nước vững – dù muôn cơn giông tố. Kết: Thiên ý và lòng dân – hai chiều cùng một Đạo, Trời gửi lòng dân để soi sáng đường đời. Kẻ biết thuận, chính trị hóa nhân hòa, Kẻ nghịch Trời, nghịch dân – tự diệt chính mình. Đọc ít hơn
    Like
    Love
    Haha
    6
    0 Bình luận 0 Chia sẽ