• HNI 27/10: Bài thơ Chương 13: Khi lòng dân ly tán – triều đại lung lay
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi lòng dân chẳng còn chung một nhịp,
    Ngai vàng kia hóa chiếc ghế trống trơn.
    Cung điện sáng mà tâm người đã tối,
    Đế nghiệp xưa – chỉ còn trong giấc mơ.
    Khi dân oán, đất trời cũng nặng,
    Cây chẳng xanh, sông cạn đá khô.
    Gió chẳng hát, chim không đậu,
    Mưa rơi như lệ của hư vô.
    Lòng dân tán, quyền đâu mà giữ?
    Trị dân không nghĩa – Trời thu quyền ngay.
    Thế nước lớn mà tâm dân rạn,
    Thì triều đại chẳng thể còn dài.
    Không ai lật đổ một đế vương,
    Ngoài chính dân mình quay lưng thầm lặng.
    Không ai phá tan một triều đại,
    Ngoài chính sự bất công đã chồng chất nặng.
    Ngai vàng lung lay chẳng vì đao kiếm,
    Mà vì tiếng thở dài giữa dân gian.
    Một giọt lệ rơi nơi chợ vắng,
    Cũng nứt tan ngọc tỷ trong cung vàng.
    Khi quan liêu xa rời dân khổ,
    Khi quyền quý quên nghĩa nhân tâm,
    Thì Đạo Trời tự xoay bánh số,
    Khiến cơ đồ hóa bụi âm thầm.
    Không có dân – vua chỉ là kẻ lữ,
    Lang thang giữa cõi vô thường quyền danh.
    Không có dân – nước chỉ là địa ngục,
    Dù tường son, dù cẩm tú lung linh.
    Một khi dân chẳng còn tin,
    Thì lệnh vua hóa gió, lời triều hóa khói.
    Một khi dân chẳng còn nhìn,
    Thì ngai ngọc cũng chỉ là cát bụi trôi.
    Bởi dân là gốc, triều là ngọn,
    Cội không bền – lá úa rụng thôi.
    Người khôn trị nước bằng lòng thuận,
    Kẻ ngu giữ nước bằng bạo uy.
    Đến khi lòng dân đã lìa,
    Thì muôn đạo quân cũng thành mây loãng.
    Trời không cần giáng sấm,
    Chỉ cần dân quay lưng – triều đại tan tành.
    Hãy nhớ: lòng dân là Thần,
    Không cần kiếm cũng phân định chính tà.
    Ai thuận dân – Trời nâng giữ,
    Ai nghịch dân – Trời tự phế truất ra.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ Chương 13: Khi lòng dân ly tán – triều đại lung lay (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi lòng dân chẳng còn chung một nhịp, Ngai vàng kia hóa chiếc ghế trống trơn. Cung điện sáng mà tâm người đã tối, Đế nghiệp xưa – chỉ còn trong giấc mơ. Khi dân oán, đất trời cũng nặng, Cây chẳng xanh, sông cạn đá khô. Gió chẳng hát, chim không đậu, Mưa rơi như lệ của hư vô. Lòng dân tán, quyền đâu mà giữ? Trị dân không nghĩa – Trời thu quyền ngay. Thế nước lớn mà tâm dân rạn, Thì triều đại chẳng thể còn dài. Không ai lật đổ một đế vương, Ngoài chính dân mình quay lưng thầm lặng. Không ai phá tan một triều đại, Ngoài chính sự bất công đã chồng chất nặng. Ngai vàng lung lay chẳng vì đao kiếm, Mà vì tiếng thở dài giữa dân gian. Một giọt lệ rơi nơi chợ vắng, Cũng nứt tan ngọc tỷ trong cung vàng. Khi quan liêu xa rời dân khổ, Khi quyền quý quên nghĩa nhân tâm, Thì Đạo Trời tự xoay bánh số, Khiến cơ đồ hóa bụi âm thầm. Không có dân – vua chỉ là kẻ lữ, Lang thang giữa cõi vô thường quyền danh. Không có dân – nước chỉ là địa ngục, Dù tường son, dù cẩm tú lung linh. Một khi dân chẳng còn tin, Thì lệnh vua hóa gió, lời triều hóa khói. Một khi dân chẳng còn nhìn, Thì ngai ngọc cũng chỉ là cát bụi trôi. Bởi dân là gốc, triều là ngọn, Cội không bền – lá úa rụng thôi. Người khôn trị nước bằng lòng thuận, Kẻ ngu giữ nước bằng bạo uy. Đến khi lòng dân đã lìa, Thì muôn đạo quân cũng thành mây loãng. Trời không cần giáng sấm, Chỉ cần dân quay lưng – triều đại tan tành. Hãy nhớ: lòng dân là Thần, Không cần kiếm cũng phân định chính tà. Ai thuận dân – Trời nâng giữ, Ai nghịch dân – Trời tự phế truất ra.
    Like
    Love
    Sad
    9
    1 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ Chương 12: Khi lòng dân thuận – thiên hạ thái bình
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi lòng dân thuận, trời xanh biếc,
    Mây ngừng bay, gió cũng dịu hiền.
    Đất mở nụ, sông reo khúc nhạc,
    Trẻ cười vang – tổ quốc bình yên.
    Một tấc lòng dân hơn ngàn đạo lệnh,
    Một niềm tin dân mạnh hơn vạn quân.
    Không cần gươm giáo, chỉ cần đồng thuận,
    Là thiên hạ tự hóa mùa xuân.
    Nước chẳng thể yên khi lòng người loạn,
    Triều đại chẳng bền nếu dân khổ đau.
    Ngai vàng dựng bởi vạn lòng tin tưởng,
    Chứ không bởi máu đổ trên đầu.
    Khi dân thương dân, vua thương dân,
    Cõi nhân gian hóa cõi thần tiên.
    Không cần trị, dân cũng thuận,
    Không cần lệnh, dân cũng liền.
    Khi dân tin, mọi lời đều có đạo,
    Khi dân nghi, ngàn pháp chẳng sinh công.
    Dân là gốc – chính quyền là ngọn,
    Nước thịnh suy đều khởi từ lòng.
    Lòng dân thuận – trời ban phúc,
    Lòng dân nghịch – trời xoay vần.
    Thuận thiên, thuận đạo, thuận lòng nước,
    Thì quốc gia vĩnh cửu muôn xuân.
    Đừng xem dân như kẻ dưới,
    Hãy xem dân là mạch sống của đời.
    Mỗi người dân là một trời nhỏ,
    Góp thành nền vũ trụ rạng ngời.
    Khi dân cười – đất nở hoa,
    Khi dân khóc – trời cũng rơi lệ.
    Bởi dân là khí của sơn hà,
    Là linh hồn của mọi thế hệ.
    Muốn thiên hạ thái bình – hãy dưỡng lòng dân,
    Muốn quốc gia vững bền – hãy tin dân trước.
    Đạo trị nước không ở sách vở,
    Mà ở chữ “nhân” khắc trong từng bước.
    Khi lòng dân thuận – tự nhiên trời thuận,
    Không cần mưu, cũng hóa đại đồng.
    Bởi dân là Trời trong hình hài đất,
    Giữ cho nhân thế mãi trường tồn.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ Chương 12: Khi lòng dân thuận – thiên hạ thái bình (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi lòng dân thuận, trời xanh biếc, Mây ngừng bay, gió cũng dịu hiền. Đất mở nụ, sông reo khúc nhạc, Trẻ cười vang – tổ quốc bình yên. Một tấc lòng dân hơn ngàn đạo lệnh, Một niềm tin dân mạnh hơn vạn quân. Không cần gươm giáo, chỉ cần đồng thuận, Là thiên hạ tự hóa mùa xuân. Nước chẳng thể yên khi lòng người loạn, Triều đại chẳng bền nếu dân khổ đau. Ngai vàng dựng bởi vạn lòng tin tưởng, Chứ không bởi máu đổ trên đầu. Khi dân thương dân, vua thương dân, Cõi nhân gian hóa cõi thần tiên. Không cần trị, dân cũng thuận, Không cần lệnh, dân cũng liền. Khi dân tin, mọi lời đều có đạo, Khi dân nghi, ngàn pháp chẳng sinh công. Dân là gốc – chính quyền là ngọn, Nước thịnh suy đều khởi từ lòng. Lòng dân thuận – trời ban phúc, Lòng dân nghịch – trời xoay vần. Thuận thiên, thuận đạo, thuận lòng nước, Thì quốc gia vĩnh cửu muôn xuân. Đừng xem dân như kẻ dưới, Hãy xem dân là mạch sống của đời. Mỗi người dân là một trời nhỏ, Góp thành nền vũ trụ rạng ngời. Khi dân cười – đất nở hoa, Khi dân khóc – trời cũng rơi lệ. Bởi dân là khí của sơn hà, Là linh hồn của mọi thế hệ. Muốn thiên hạ thái bình – hãy dưỡng lòng dân, Muốn quốc gia vững bền – hãy tin dân trước. Đạo trị nước không ở sách vở, Mà ở chữ “nhân” khắc trong từng bước. Khi lòng dân thuận – tự nhiên trời thuận, Không cần mưu, cũng hóa đại đồng. Bởi dân là Trời trong hình hài đất, Giữ cho nhân thế mãi trường tồn. Đọc ít hơn
    Like
    Love
    Wow
    6
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ Chương 14: Vai trò của trí dân, lực dân, tài dân
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Trí dân sáng – nước bừng khai hóa,
    Lực dân mạnh – đất vững cơ đồ.
    Tài dân nở – trời ban vận hội,
    Ba nguồn hợp lại – quốc gia cơm no.
    Không dân trí, vua dù thánh cũng mù,
    Không dân lực, nước giàu mà yếu.
    Không dân tài, đạo trị khó lâu,
    Bởi nhân tâm là ngọc quý diệu.
    Trí dân là ngọn đèn soi bóng,
    Giúp vua biết sáng, quan biết minh.
    Lực dân là núi cao sông rộng,
    Giữ biên cương vững giữa thịnh bình.
    Tài dân là kho báu vô tận,
    Ẩn trong người thợ, kẻ nông phu.
    Trong tiếng hát, trong tay cần mẫn,
    Trong giọt mồ hôi chảy giữa sương thu.
    Khi dân có trí – luật hiền minh,
    Khi dân có lực – đời an định.
    Khi dân có tài – nước vươn xa,
    Không cần phép, Đạo tự sinh hình.
    Triều đại nào xem dân là cội,
    Sẽ thịnh muôn đời chẳng phôi pha.
    Triều đại nào quên dân trí tuệ,
    Sẽ tàn như lá cuối mùa hoa.
    Trí dân mở thì nước mở,
    Trí dân bịt thì nước mù.
    Lực dân dâng thì non sông nở,
    Lực dân suy thì vận số lu mờ.
    Tài dân chẳng ở cung vàng,
    Mà trong đồng ruộng, trong làng nhỏ bé.
    Biết gom từng tia sáng nhỏ,
    Thì quốc gia rạng tựa mặt trời kia.
    Dân là thầy của mọi triều đại,
    Là linh hồn của mọi văn minh.
    Không có dân, vua chỉ là tượng,
    Không có dân, nước hóa hư danh.
    Muốn hưng thịnh – hãy khơi dân trí,
    Muốn vững bền – hãy dưỡng dân tâm.
    Muốn trường tồn – hãy tin dân lực,
    Bởi dân là Trời, là Đạo, là Nguồn.
    HNI 27/10: 📕Bài thơ Chương 14: Vai trò của trí dân, lực dân, tài dân (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Trí dân sáng – nước bừng khai hóa, Lực dân mạnh – đất vững cơ đồ. Tài dân nở – trời ban vận hội, Ba nguồn hợp lại – quốc gia cơm no. Không dân trí, vua dù thánh cũng mù, Không dân lực, nước giàu mà yếu. Không dân tài, đạo trị khó lâu, Bởi nhân tâm là ngọc quý diệu. Trí dân là ngọn đèn soi bóng, Giúp vua biết sáng, quan biết minh. Lực dân là núi cao sông rộng, Giữ biên cương vững giữa thịnh bình. Tài dân là kho báu vô tận, Ẩn trong người thợ, kẻ nông phu. Trong tiếng hát, trong tay cần mẫn, Trong giọt mồ hôi chảy giữa sương thu. Khi dân có trí – luật hiền minh, Khi dân có lực – đời an định. Khi dân có tài – nước vươn xa, Không cần phép, Đạo tự sinh hình. Triều đại nào xem dân là cội, Sẽ thịnh muôn đời chẳng phôi pha. Triều đại nào quên dân trí tuệ, Sẽ tàn như lá cuối mùa hoa. Trí dân mở thì nước mở, Trí dân bịt thì nước mù. Lực dân dâng thì non sông nở, Lực dân suy thì vận số lu mờ. Tài dân chẳng ở cung vàng, Mà trong đồng ruộng, trong làng nhỏ bé. Biết gom từng tia sáng nhỏ, Thì quốc gia rạng tựa mặt trời kia. Dân là thầy của mọi triều đại, Là linh hồn của mọi văn minh. Không có dân, vua chỉ là tượng, Không có dân, nước hóa hư danh. Muốn hưng thịnh – hãy khơi dân trí, Muốn vững bền – hãy dưỡng dân tâm. Muốn trường tồn – hãy tin dân lực, Bởi dân là Trời, là Đạo, là Nguồn.
    Like
    Love
    Yay
    9
    1 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ Chương 13: Khi lòng dân ly tán – triều đại lung lay
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Khi lòng dân chẳng còn chung một nhịp,
    Ngai vàng kia hóa chiếc ghế trống trơn.
    Cung điện sáng mà tâm người đã tối,
    Đế nghiệp xưa – chỉ còn trong giấc mơ.
    Khi dân oán, đất trời cũng nặng,
    Cây chẳng xanh, sông cạn đá khô.
    Gió chẳng hát, chim không đậu,
    Mưa rơi như lệ của hư vô.
    Lòng dân tán, quyền đâu mà giữ?
    Trị dân không nghĩa – Trời thu quyền ngay.
    Thế nước lớn mà tâm dân rạn,
    Thì triều đại chẳng thể còn dài.
    Không ai lật đổ một đế vương,
    Ngoài chính dân mình quay lưng thầm lặng.
    Không ai phá tan một triều đại,
    Ngoài chính sự bất công đã chồng chất nặng.
    Ngai vàng lung lay chẳng vì đao kiếm,
    Mà vì tiếng thở dài giữa dân gian.
    Một giọt lệ rơi nơi chợ vắng,
    Cũng nứt tan ngọc tỷ trong cung vàng.
    Khi quan liêu xa rời dân khổ,
    Khi quyền quý quên nghĩa nhân tâm,
    Thì Đạo Trời tự xoay bánh số,
    Khiến cơ đồ hóa bụi âm thầm.
    Không có dân – vua chỉ là kẻ lữ,
    Lang thang giữa cõi vô thường quyền danh.
    Không có dân – nước chỉ là địa ngục,
    Dù tường son, dù cẩm tú lung linh.
    Một khi dân chẳng còn tin,
    Thì lệnh vua hóa gió, lời triều hóa khói.
    Một khi dân chẳng còn nhìn,
    Thì ngai ngọc cũng chỉ là cát bụi trôi.
    Bởi dân là gốc, triều là ngọn,
    Cội không bền – lá úa rụng thôi.
    Người khôn trị nước bằng lòng thuận,
    Kẻ ngu giữ nước bằng bạo uy.
    Đến khi lòng dân đã lìa,
    Thì muôn đạo quân cũng thành mây loãng.
    Trời không cần giáng sấm,
    Chỉ cần dân quay lưng – triều đại tan tành.
    Hãy nhớ: lòng dân là Thần,
    Không cần kiếm cũng phân định chính tà.
    Ai thuận dân – Trời nâng giữ,
    Ai nghịch dân – Trời tự phế truất ra.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ Chương 13: Khi lòng dân ly tán – triều đại lung lay (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Khi lòng dân chẳng còn chung một nhịp, Ngai vàng kia hóa chiếc ghế trống trơn. Cung điện sáng mà tâm người đã tối, Đế nghiệp xưa – chỉ còn trong giấc mơ. Khi dân oán, đất trời cũng nặng, Cây chẳng xanh, sông cạn đá khô. Gió chẳng hát, chim không đậu, Mưa rơi như lệ của hư vô. Lòng dân tán, quyền đâu mà giữ? Trị dân không nghĩa – Trời thu quyền ngay. Thế nước lớn mà tâm dân rạn, Thì triều đại chẳng thể còn dài. Không ai lật đổ một đế vương, Ngoài chính dân mình quay lưng thầm lặng. Không ai phá tan một triều đại, Ngoài chính sự bất công đã chồng chất nặng. Ngai vàng lung lay chẳng vì đao kiếm, Mà vì tiếng thở dài giữa dân gian. Một giọt lệ rơi nơi chợ vắng, Cũng nứt tan ngọc tỷ trong cung vàng. Khi quan liêu xa rời dân khổ, Khi quyền quý quên nghĩa nhân tâm, Thì Đạo Trời tự xoay bánh số, Khiến cơ đồ hóa bụi âm thầm. Không có dân – vua chỉ là kẻ lữ, Lang thang giữa cõi vô thường quyền danh. Không có dân – nước chỉ là địa ngục, Dù tường son, dù cẩm tú lung linh. Một khi dân chẳng còn tin, Thì lệnh vua hóa gió, lời triều hóa khói. Một khi dân chẳng còn nhìn, Thì ngai ngọc cũng chỉ là cát bụi trôi. Bởi dân là gốc, triều là ngọn, Cội không bền – lá úa rụng thôi. Người khôn trị nước bằng lòng thuận, Kẻ ngu giữ nước bằng bạo uy. Đến khi lòng dân đã lìa, Thì muôn đạo quân cũng thành mây loãng. Trời không cần giáng sấm, Chỉ cần dân quay lưng – triều đại tan tành. Hãy nhớ: lòng dân là Thần, Không cần kiếm cũng phân định chính tà. Ai thuận dân – Trời nâng giữ, Ai nghịch dân – Trời tự phế truất ra. Đọc ít hơn
    Like
    Love
    Haha
    8
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • 8. Kết luận: Tiền – linh hồn của Thuận Thiên

    Phần I kết thúc không chỉ để nói về tiền, mà là để nhắc nhân loại rằng: mọi sự vật đều có linh hồn. Tiền cũng vậy – nó có thể cứu rỗi hoặc hủy diệt, tùy theo tâm người sử dụng. Khi con người nhớ lại cội nguồn thiêng liêng của tiền, họ khôi phục lại mối liên kết với Thiên Đạo.Từ Lưu Hải – người hiểu đạo lưu thông, đến tư tưởng “Thuận Thiên” – đạo sống thuận Trời, ta thấy hành trình tiền tệ chính là hành trình tâm linh của nhân loại. Khi tiền trở lại vị trí thiêng liêng của nó, xã hội sẽ tìm lại hòa khí, và con người sẽ sống lại trong ánh sáng.

    Bởi vì, tiền – nếu được nhìn bằng đôi mắt của minh triết – chính là năng lượng thiêng của Trời trong hình hài của con người.
    8. Kết luận: Tiền – linh hồn của Thuận Thiên Phần I kết thúc không chỉ để nói về tiền, mà là để nhắc nhân loại rằng: mọi sự vật đều có linh hồn. Tiền cũng vậy – nó có thể cứu rỗi hoặc hủy diệt, tùy theo tâm người sử dụng. Khi con người nhớ lại cội nguồn thiêng liêng của tiền, họ khôi phục lại mối liên kết với Thiên Đạo.Từ Lưu Hải – người hiểu đạo lưu thông, đến tư tưởng “Thuận Thiên” – đạo sống thuận Trời, ta thấy hành trình tiền tệ chính là hành trình tâm linh của nhân loại. Khi tiền trở lại vị trí thiêng liêng của nó, xã hội sẽ tìm lại hòa khí, và con người sẽ sống lại trong ánh sáng. Bởi vì, tiền – nếu được nhìn bằng đôi mắt của minh triết – chính là năng lượng thiêng của Trời trong hình hài của con người.
    Love
    Like
    Wow
    11
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10:
    BÀI THƠ CHƯƠNG 15: CHÍNH TRỊ NGHỊCH ĐẠO – DẤU HIỆU SUY VONG CỦA ĐẾ CHẾ
    Henry Lê – Lê Đình Hải
    Chính trị thuận Đạo – dân an nước thịnh,
    Nghịch Đạo sinh loạn – nghiệp đế vong tàn.
    Trời có luật Trời, Đạo có quy hoàn,
    Ai cưỡng nghịch Đạo, ắt chuốc tai ương.
    Khi quyền lực rời xa lẽ thiện,
    Búa công lý hóa lưỡi gươm oan.
    Quan tham ngồi ngất ngai vàng,
    Mưu riêng che nghĩa, giả đàng chính tâm.
    Lòng dân tan, vận nước chìm,
    Đế vương mất gốc, triều đình lung lay.
    Thiên mệnh chẳng ở nơi tay,
    Mà trong dân khí – mạch dài nghìn năm.
    Ngai vàng dựng giữa phù vân,
    Nước như lửa ngầm, sớm tàn muộn thôi.
    Người trên càng cố nắm ngôi,
    Trời càng khiến cảnh rối bời tang thương.
    Khi chính trị biến thành công cụ,
    Đạo nghĩa bị bán giữa chợ đời.
    Lời vua hóa rỗng tiếng chơi,
    Dân cười trong lệ, lệ rơi trong cười.
    Chính trị nghịch Đạo – dân rời, lòng tán,
    Tham quyền sinh họa, dục vọng sinh tai.
    Trời nhìn xuống, gió cuốn bay,
    Công danh một kiếp hóa mây giữa trời.
    Chính trị thuận Đạo, nhân hòa vững,
    Dân cùng trị nước – đạo cùng sinh.
    Còn nghịch Đạo, dối lòng dân,
    Thì cơ đồ rã, chẳng cần binh đao.
    Khi vua trị nước bằng sợ hãi,
    Là lúc Đạo rời, Trời quay lưng.
    Một lời gian dối – mất nghìn năm chứng,
    Một kẻ tham quyền – đốt cả thiên đường.
    Triều đại suy vong không vì địch,
    Mà vì trong chính trị nghịch tâm.
    Khi kẻ trị quên Đạo nhân,
    Là khi đế nghiệp hóa thân tro tàn.
    Đạo không giữ – Trời không còn giữ,
    Dân không tin – nước chẳng còn dân.
    Khi quyền không gắn với ân,
    Thì vương triều ấy chỉ còn trong mộng.
    Kẻ hiểu Đạo – trị bằng nhân nghĩa,
    Kẻ nghịch Đạo – tự diệt cơ đồ.
    Ngai vàng chẳng giữ được lâu,
    Nếu quên dân gốc, quên câu Trời dạy:
    “Dân là nước – vua như thuyền nổi,
    Nước thuận thì thuyền nổi vững vàng.
    Nước dậy sóng, thuyền tan hoang,
    Chính trị nghịch Đạo – Trời toan đổi người.”
    HNI 27/10: 📕 BÀI THƠ CHƯƠNG 15: CHÍNH TRỊ NGHỊCH ĐẠO – DẤU HIỆU SUY VONG CỦA ĐẾ CHẾ Henry Lê – Lê Đình Hải Chính trị thuận Đạo – dân an nước thịnh, Nghịch Đạo sinh loạn – nghiệp đế vong tàn. Trời có luật Trời, Đạo có quy hoàn, Ai cưỡng nghịch Đạo, ắt chuốc tai ương. Khi quyền lực rời xa lẽ thiện, Búa công lý hóa lưỡi gươm oan. Quan tham ngồi ngất ngai vàng, Mưu riêng che nghĩa, giả đàng chính tâm. Lòng dân tan, vận nước chìm, Đế vương mất gốc, triều đình lung lay. Thiên mệnh chẳng ở nơi tay, Mà trong dân khí – mạch dài nghìn năm. Ngai vàng dựng giữa phù vân, Nước như lửa ngầm, sớm tàn muộn thôi. Người trên càng cố nắm ngôi, Trời càng khiến cảnh rối bời tang thương. Khi chính trị biến thành công cụ, Đạo nghĩa bị bán giữa chợ đời. Lời vua hóa rỗng tiếng chơi, Dân cười trong lệ, lệ rơi trong cười. Chính trị nghịch Đạo – dân rời, lòng tán, Tham quyền sinh họa, dục vọng sinh tai. Trời nhìn xuống, gió cuốn bay, Công danh một kiếp hóa mây giữa trời. Chính trị thuận Đạo, nhân hòa vững, Dân cùng trị nước – đạo cùng sinh. Còn nghịch Đạo, dối lòng dân, Thì cơ đồ rã, chẳng cần binh đao. Khi vua trị nước bằng sợ hãi, Là lúc Đạo rời, Trời quay lưng. Một lời gian dối – mất nghìn năm chứng, Một kẻ tham quyền – đốt cả thiên đường. Triều đại suy vong không vì địch, Mà vì trong chính trị nghịch tâm. Khi kẻ trị quên Đạo nhân, Là khi đế nghiệp hóa thân tro tàn. Đạo không giữ – Trời không còn giữ, Dân không tin – nước chẳng còn dân. Khi quyền không gắn với ân, Thì vương triều ấy chỉ còn trong mộng. Kẻ hiểu Đạo – trị bằng nhân nghĩa, Kẻ nghịch Đạo – tự diệt cơ đồ. Ngai vàng chẳng giữ được lâu, Nếu quên dân gốc, quên câu Trời dạy: “Dân là nước – vua như thuyền nổi, Nước thuận thì thuyền nổi vững vàng. Nước dậy sóng, thuyền tan hoang, Chính trị nghịch Đạo – Trời toan đổi người.”
    Like
    Love
    11
    2 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ Chương 14: Vai trò của trí dân, lực dân, tài dân
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Trí dân sáng – nước bừng khai hóa,
    Lực dân mạnh – đất vững cơ đồ.
    Tài dân nở – trời ban vận hội,
    Ba nguồn hợp lại – quốc gia cơm no.
    Không dân trí, vua dù thánh cũng mù,
    Không dân lực, nước giàu mà yếu.
    Không dân tài, đạo trị khó lâu,
    Bởi nhân tâm là ngọc quý diệu.
    Trí dân là ngọn đèn soi bóng,
    Giúp vua biết sáng, quan biết minh.
    Lực dân là núi cao sông rộng,
    Giữ biên cương vững giữa thịnh bình.
    Tài dân là kho báu vô tận,
    Ẩn trong người thợ, kẻ nông phu.
    Trong tiếng hát, trong tay cần mẫn,
    Trong giọt mồ hôi chảy giữa sương thu.
    Khi dân có trí – luật hiền minh,
    Khi dân có lực – đời an định.
    Khi dân có tài – nước vươn xa,
    Không cần phép, Đạo tự sinh hình.
    Triều đại nào xem dân là cội,
    Sẽ thịnh muôn đời chẳng phôi pha.
    Triều đại nào quên dân trí tuệ,
    Sẽ tàn như lá cuối mùa hoa.
    Trí dân mở thì nước mở,
    Trí dân bịt thì nước mù.
    Lực dân dâng thì non sông nở,
    Lực dân suy thì vận số lu mờ.
    Tài dân chẳng ở cung vàng,
    Mà trong đồng ruộng, trong làng nhỏ bé.
    Biết gom từng tia sáng nhỏ,
    Thì quốc gia rạng tựa mặt trời kia.
    Dân là thầy của mọi triều đại,
    Là linh hồn của mọi văn minh.
    Không có dân, vua chỉ là tượng,
    Không có dân, nước hóa hư danh.
    Muốn hưng thịnh – hãy khơi dân trí,
    Muốn vững bền – hãy dưỡng dân tâm.
    Muốn trường tồn – hãy tin dân lực,
    Bởi dân là Trời, là Đạo, là Nguồn.
    Đọc ít hơn
    HNI 27/10: Bài thơ Chương 14: Vai trò của trí dân, lực dân, tài dân (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Trí dân sáng – nước bừng khai hóa, Lực dân mạnh – đất vững cơ đồ. Tài dân nở – trời ban vận hội, Ba nguồn hợp lại – quốc gia cơm no. Không dân trí, vua dù thánh cũng mù, Không dân lực, nước giàu mà yếu. Không dân tài, đạo trị khó lâu, Bởi nhân tâm là ngọc quý diệu. Trí dân là ngọn đèn soi bóng, Giúp vua biết sáng, quan biết minh. Lực dân là núi cao sông rộng, Giữ biên cương vững giữa thịnh bình. Tài dân là kho báu vô tận, Ẩn trong người thợ, kẻ nông phu. Trong tiếng hát, trong tay cần mẫn, Trong giọt mồ hôi chảy giữa sương thu. Khi dân có trí – luật hiền minh, Khi dân có lực – đời an định. Khi dân có tài – nước vươn xa, Không cần phép, Đạo tự sinh hình. Triều đại nào xem dân là cội, Sẽ thịnh muôn đời chẳng phôi pha. Triều đại nào quên dân trí tuệ, Sẽ tàn như lá cuối mùa hoa. Trí dân mở thì nước mở, Trí dân bịt thì nước mù. Lực dân dâng thì non sông nở, Lực dân suy thì vận số lu mờ. Tài dân chẳng ở cung vàng, Mà trong đồng ruộng, trong làng nhỏ bé. Biết gom từng tia sáng nhỏ, Thì quốc gia rạng tựa mặt trời kia. Dân là thầy của mọi triều đại, Là linh hồn của mọi văn minh. Không có dân, vua chỉ là tượng, Không có dân, nước hóa hư danh. Muốn hưng thịnh – hãy khơi dân trí, Muốn vững bền – hãy dưỡng dân tâm. Muốn trường tồn – hãy tin dân lực, Bởi dân là Trời, là Đạo, là Nguồn. Đọc ít hơn
    Like
    Love
    Angry
    8
    1 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ Chương 14: Vai trò của trí dân, lực dân, tài dân
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Trí dân sáng – nước bừng khai hóa,
    Lực dân mạnh – đất vững cơ đồ.
    Tài dân nở – trời ban vận hội,
    Ba nguồn hợp lại – quốc gia cơm no.
    Không dân trí, vua dù thánh cũng mù,
    Không dân lực, nước giàu mà yếu.
    Không dân tài, đạo trị khó lâu,
    Bởi nhân tâm là ngọc quý diệu.
    Trí dân là ngọn đèn soi bóng,
    Giúp vua biết sáng, quan biết minh.
    Lực dân là núi cao sông rộng,
    Giữ biên cương vững giữa thịnh bình.
    Tài dân là kho báu vô tận,
    Ẩn trong người thợ, kẻ nông phu.
    Trong tiếng hát, trong tay cần mẫn,
    Trong giọt mồ hôi chảy giữa sương thu.
    Khi dân có trí – luật hiền minh,
    Khi dân có lực – đời an định.
    Khi dân có tài – nước vươn xa,
    Không cần phép, Đạo tự sinh hình.
    Triều đại nào xem dân là cội,
    Sẽ thịnh muôn đời chẳng phôi pha.
    Triều đại nào quên dân trí tuệ,
    Sẽ tàn như lá cuối mùa hoa.
    Trí dân mở thì nước mở,
    Trí dân bịt thì nước mù.
    Lực dân dâng thì non sông nở,
    Lực dân suy thì vận số lu mờ.
    Tài dân chẳng ở cung vàng,
    Mà trong đồng ruộng, trong làng nhỏ bé.
    Biết gom từng tia sáng nhỏ,
    Thì quốc gia rạng tựa mặt trời kia.
    Dân là thầy của mọi triều đại,
    Là linh hồn của mọi văn minh.
    Không có dân, vua chỉ là tượng,
    Không có dân, nước hóa hư danh.
    Muốn hưng thịnh – hãy khơi dân trí,
    Muốn vững bền – hãy dưỡng dân tâm.
    Muốn trường tồn – hãy tin dân lực,
    Bởi dân là Trời, là Đạo, là Nguồn.
    Đọc ít hơn
    Đọc thêm
    HNI 27/10: Bài thơ Chương 14: Vai trò của trí dân, lực dân, tài dân (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Trí dân sáng – nước bừng khai hóa, Lực dân mạnh – đất vững cơ đồ. Tài dân nở – trời ban vận hội, Ba nguồn hợp lại – quốc gia cơm no. Không dân trí, vua dù thánh cũng mù, Không dân lực, nước giàu mà yếu. Không dân tài, đạo trị khó lâu, Bởi nhân tâm là ngọc quý diệu. Trí dân là ngọn đèn soi bóng, Giúp vua biết sáng, quan biết minh. Lực dân là núi cao sông rộng, Giữ biên cương vững giữa thịnh bình. Tài dân là kho báu vô tận, Ẩn trong người thợ, kẻ nông phu. Trong tiếng hát, trong tay cần mẫn, Trong giọt mồ hôi chảy giữa sương thu. Khi dân có trí – luật hiền minh, Khi dân có lực – đời an định. Khi dân có tài – nước vươn xa, Không cần phép, Đạo tự sinh hình. Triều đại nào xem dân là cội, Sẽ thịnh muôn đời chẳng phôi pha. Triều đại nào quên dân trí tuệ, Sẽ tàn như lá cuối mùa hoa. Trí dân mở thì nước mở, Trí dân bịt thì nước mù. Lực dân dâng thì non sông nở, Lực dân suy thì vận số lu mờ. Tài dân chẳng ở cung vàng, Mà trong đồng ruộng, trong làng nhỏ bé. Biết gom từng tia sáng nhỏ, Thì quốc gia rạng tựa mặt trời kia. Dân là thầy của mọi triều đại, Là linh hồn của mọi văn minh. Không có dân, vua chỉ là tượng, Không có dân, nước hóa hư danh. Muốn hưng thịnh – hãy khơi dân trí, Muốn vững bền – hãy dưỡng dân tâm. Muốn trường tồn – hãy tin dân lực, Bởi dân là Trời, là Đạo, là Nguồn. Đọc ít hơn Đọc thêm
    Like
    Love
    Sad
    7
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • TRẢ LỜI CÂU ĐỐ BUỔI CHIỀU NGÀY 27.10
      👉🏻Đề 1: Những thực phẩm nên ăn và nên tránh khi bị gout 1. Thực phẩm nên ăn khi bị gout: Rau xanh và trái cây tươi: Giúp giảm axit uric và tăng đào thải qua thận, như dưa leo, cà chua, cam, bưởi, táo. Ngũ cốc nguyên hạt: Gạo lứt, yến mạch, bánh mì đen giúp cung cấp năng lượng...
    Like
    Love
    Yay
    7
    0 Bình luận 0 Chia sẽ
  • HNI 27/10: Bài thơ chương 16:
    Lòng dân và tính chính danh của quyền lực
    (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải)
    Trời trao quyền chẳng phải cho kẻ mạnh,
    Mà cho ai biết lắng tiếng dân ca.
    Dân là biển, quyền như thuyền lướt sóng,
    Thuận lòng dân – thuyền vững đến muôn xa.
    Chính danh đến từ tâm dân quy tụ,
    Không từ ngai, gươm báu hay ấn vàng.
    Khi dân thuận, nước yên như trời lặng,
    Khi dân ly, quyền lực hóa tro tàn.
    Có triều đại dựng trên lòng dân sáng,
    Chẳng cần roi vẫn khiến nước thanh bình.
    Có triều đại dựa vào gươm và máu,
    Rụng tan như lá úa cuối bình minh.
    Dân là gốc – lời xưa còn vọng mãi,
    Bao vương triều hiểu được đạo này đâu?
    Họ quên mất gốc sinh ra quyền lực,
    Từ nhân tâm – chẳng từ đấu tranh sầu.
    Khi quyền lực biết soi mình trong dân,
    Sẽ thấy trong mắt dân – Trời phản chiếu.
    Còn khi nó xem dân như cát bụi,
    Chính nó đang tự đổ vỡ, tiêu điều.
    Một nụ cười dân – ngàn vàng chính trị,
    Một giọt lệ dân – mệnh trị lung lay.
    Lòng dân chính là thước đo danh chính,
    Quyền nào trái Đạo – sớm hóa mây bay.
    Có thể dối một thời bằng mỹ ngữ,
    Nhưng dân không dại mãi giữa nhân gian.
    Sức mạnh thật không nằm trong khẩu hiệu,
    Mà trong niềm tin – gắn kết muôn ngàn.
    Khi dân đã tin – non sông bất khuất,
    Khi dân đã nghi – đế chế lung lay.
    Chính danh ấy – không ai tự ban tặng,
    Mà do lòng dân – ký giữa trời mây.
    HNI 27/10: 📕 Bài thơ chương 16: Lòng dân và tính chính danh của quyền lực (Thơ: Henry Lê – Lê Đình Hải) Trời trao quyền chẳng phải cho kẻ mạnh, Mà cho ai biết lắng tiếng dân ca. Dân là biển, quyền như thuyền lướt sóng, Thuận lòng dân – thuyền vững đến muôn xa. Chính danh đến từ tâm dân quy tụ, Không từ ngai, gươm báu hay ấn vàng. Khi dân thuận, nước yên như trời lặng, Khi dân ly, quyền lực hóa tro tàn. Có triều đại dựng trên lòng dân sáng, Chẳng cần roi vẫn khiến nước thanh bình. Có triều đại dựa vào gươm và máu, Rụng tan như lá úa cuối bình minh. Dân là gốc – lời xưa còn vọng mãi, Bao vương triều hiểu được đạo này đâu? Họ quên mất gốc sinh ra quyền lực, Từ nhân tâm – chẳng từ đấu tranh sầu. Khi quyền lực biết soi mình trong dân, Sẽ thấy trong mắt dân – Trời phản chiếu. Còn khi nó xem dân như cát bụi, Chính nó đang tự đổ vỡ, tiêu điều. Một nụ cười dân – ngàn vàng chính trị, Một giọt lệ dân – mệnh trị lung lay. Lòng dân chính là thước đo danh chính, Quyền nào trái Đạo – sớm hóa mây bay. Có thể dối một thời bằng mỹ ngữ, Nhưng dân không dại mãi giữa nhân gian. Sức mạnh thật không nằm trong khẩu hiệu, Mà trong niềm tin – gắn kết muôn ngàn. Khi dân đã tin – non sông bất khuất, Khi dân đã nghi – đế chế lung lay. Chính danh ấy – không ai tự ban tặng, Mà do lòng dân – ký giữa trời mây.
    Like
    Love
    Haha
    11
    1 Bình luận 0 Chia sẽ